Doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau cho người lao động: bố trí cho họ được nghỉ ít nhất 30 phút nếu làm việc trong 10 giờ liên tục; hằng tháng có ít nhất 4 ngày nghỉ, mỗi tuần tổng số giờ làm việc và giờ làm thêm không quá 70 giờ và được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục; đảm bảo việc khám sức khoẻ cho người lao động ít nhất 6 tháng một lần; trả lương cho mỗi giờ làm thêm vượt quá 200 giờ (theo quy định 195 cũ, không làm thêm quá 200 giờ/năm) không thấp hơn mức lương trả cho mỗi giờ làm thêm vào ngày nghỉ có hưởng lương.
Ngoài các điều kiện trên, doanh nghiệp phải có kế hoạch làm thêm giờ và phải được sự nhất trí của tổ chức công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn lâm thời. Các Sở LĐTB&XH địa phương có trách nhiệm tiếp nhận đăng ký, kiểm tra thường xuyên việc làm thêm giờ của doanh nghiệp, tổng hợp báo cáo tình hình với Bộ theo định kỳ 6 tháng, 1 năm.
Các doanh nghiệp ngoài 3 ngành sản xuất trên, nếu có nhu cầu làm thêm trên 200 giờ đến 300 giờ mỗi năm cần giải trình và đề nghị bằng văn bản với Bộ LĐTB&XH thông qua các bộ ngành hoặc sở LĐTB&XH địa phương trực tiếp quản lý. Dự kiến, đến tháng 9, dự thảo sẽ được trình lên Thủ tướng Chính phủ và đến 11/1/2003 sẽ có hiệu lực thi hành.
Tại cuộc hội thảo, có rất nhiều ý kiến tranh luận. Ông Nguyễn Xuân Côn, Chủ tịch công đoàn Tổng công ty dệt may Việt Nam thừa nhận một thực tế là hầu hết các doanh nghiệp may thời gian qua điều làm vượt thời gian làm thêm từ 1,5 đến 2 lần. Nguyên nhân là ngành may chủ yếu làm gia công, phụ thuộc vào hợp đồng của nước ngoài, chất lượng lao động thấp, phải vừa làm, vừa đào tạo... Bởi vậy việc làm thêm trước mắt chưa có khả năng khắc phục mà chỉ hạn chế phần nào.
Ông Côn đề nghị, nên thay đổi quy định ít nhất có 2 ngày nghỉ trong tháng bằng ít nhất có 4 ngày vì thực ra kéo dài ca quá 12 giờ thì năng suất lao động cũng giảm 20%. Bộ có thể cho phép làm thêm vào ngày nghỉ. Nhà nước cũng cần có một số chính sách hỗ trợ về tài chính như giảm thuế, xem lại quy định về tỷ lệ khấu hao để doanh nghiệp có điều kiện thực hiện việc trả lương gấp 3 đơn giá, 6 tháng khám sức khoẻ một lần... Nếu không có sự hỗ trợ, trong thực tế, người lao động khó được hưởng những quy định mới này.
Theo TS Tống Thị Minh, Viện khoa học Lao động và các vấn đề xã hội, nếu làm việc 9 giờ/ngày thì năng suất lao động ở giờ thứ 9 sẽ giảm 5% so với năng suất lao động giờ thứ 8, làm việc ở giờ thứ 11 giảm đi 20% và làm việc đến giờ thứ 13 thì năng suất giảm tới 40%. Vì vậy, bà Minh đề nghị số giờ làm thêm trong tuần không quá 60 giờ chứ không nên đến 70 giờ như dự thảo; cơ chế thỏa thuận giữa doanh nghiệp và người lao động là rất quan trọng và cần được nhấn mạnh trong việc quy định thực hiện làm thêm 300 giờ/năm. Cần phải xây dựng quy trình để thực hiện thỏa thuận này.
Đại diện Sở LĐTB&XH Bình Dương đề nghị bỏ quy định "đảm bảo khám sức khoẻ cho người lao động ít nhất 6 tháng/lần" bởi điều này đã được quy định tại Nghị định 06/CP ngày 20/1/1995 nhằm đảm bảo thời gian cho doanh nghiệp tổ chức sản xuất; nên nói thẳng là trả lương cho mỗi giờ làm thêm vượt quá 200 giờ quy định ít nhất bằng 300% tiền lương theo đơn giá.
Đại diện Bộ Thuỷ sản cho hay, trong 4-6 tháng thời vụ, mỗi ngày công nhân chế biến thuỷ sản trung bình làm thêm 2,5 giờ, tính ra mỗi năm là 260-300 giờ. Vì vậy, Bộ Thuỷ sản rất ủng hộ dự thảo nghị định về tăng giờ làm việc lên không quá 300 giờ/năm. Bộ có một kiến nghị nhỏ: doanh nghiệp phải bố trí thêm bữa ăn cho người lao động nếu làm việc 10 giờ trong ngày vì sau 8 giờ lao động, sức khỏe công nhân đã giảm sút, đặc biệt trong một số công việc nặng nhọc, độc hại.
Như Trang