Đóng góp cho dự thảo, thường trực HĐND các tỉnh Phú Thọ, Hải Dương, Quảng Ngãi cho rằng, không nên quy định đại biểu HĐND tiếp công dân. Lý do: Luật tổ chức HĐND và UBND không quy định. Hơn nữa, đại biểu đã tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu ra mình vào thời điểm trước, sau mỗi kỳ họp HĐND và dịp cuối năm.
Phiên họp thứ 25 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khai mạc sáng nay, dự kiến kết thúc vào ngày 28/1. Ngoài Quy chế hoạt động của HĐND các cấp, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ thảo luận và ra nghị quyết giải thích điều 241, Luật thương mại; cho ý kiến về dự thảo nghị định của Chính phủ về Quy chế khu đô thị mới; thông qua nghị quyết quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất; cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan. |
Không đồng tình với quan điểm này, đại diện Ban công tác đại biểu của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, tuy Luật không quy định, nhưng việc tiếp công dân là trách nhiệm và nghĩa vụ của đại biểu. Điều 40 Luật tổ chức HĐND và UBND quy định: "Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đại biểu HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết". Như vậy, Luật đã gián tiếp quy định đại biểu HĐND phải dành thời gian tiếp công dân.
Quy định HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do mình bầu ra cũng gây nhiều tranh cãi. Theo điều 58 của dự thảo, thường trực HĐND xem xét, quyết định trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu ra khi có kiến nghị của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu hoặc kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. HĐND sẽ thảo luận, bỏ phiếu tín nhiệm bằng hình thức bỏ phiếu kín và thông qua nghị quyết.
Một số ủy viên thường vụ Quốc hội cho rằng, không nên đưa vấn đề này vào trong quy chế bởi chưa từng địa phương nào áp dụng, dù Luật tổ chức HĐND và UBND đã quy định điều này. Tuy nhiên, ông Nguyễn Đức Kiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Ngân sách của Quốc hội kiên quyết giữ như dự thảo vì theo ông "thực tế nhiều địa phương muốn bỏ phiếu tín nhiệm, nhưng lại ngại làm".
Chiều cùng ngày, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã biểu quyết thông qua nghị quyết giải thích điểm c khoản 2 điều 241 của Luật thương mại năm 1997. Đây là lần đầu tiên cơ quan này có nghị quyết giải thích luật xuất phát từ kiến nghị của đại biểu Nguyễn Lân Dũng.
Trao đổi với VnExpress ngay sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua nghị quyết, ông Nguyễn Lân Dũng nói: "Tôi rất mừng vì sau hơn 4 tháng chờ đợi, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra được nghị quyết. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp, trọng tài kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, từ đó tránh thua thiệt cho phía Việt Nam". Ông Dũng nói thêm, qua việc này cũng cho thấy luật nên được làm cụ thể, tránh hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Điều 241 về thời hạn khiếu nại của Luật Thương mại năm 1997 quy định: 1.Thời hạn khiếu nại là thời hạn mà bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền khiếu nại đối với bên vi phạm. Quá thời hạn khiếu nại, bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Tòa án có thẩm quyền. 2. Thời hạn khiếu nại do các bên thỏa thuận trong hợp đồng; trong trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn khiếu nại được quy định như sau: a. Ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá; b. Sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng hoá; trong trường hợp hàng hoá có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ ngày hết hạn bảo hành; c.Ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng đối với khiếu nại về các hành vi thương mại khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật này. Nghị quyết giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 như sau: Đối với khiếu nại về vi phạm nghĩa vụ trong việc thực hiện các hành vi thương mại mà không phải là khiếu nại về số lượng hàng hóa quy định tại điểm a khoản 2 Điều 241 và khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng hóa quy định tại điểm b khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại thì thời hạn khiếu nại là 3 tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 điều 170 của Luật Thương mại. |
Như Trang