Giáo hoàng đi dạo ở lâu đài Galdoflo, nơi nghỉ mùa hè của ông. |
Giáo hoàng và giây phút yên tĩnh trong căn phòng riêng. |
Suốt 45 năm qua, Mari đã ghi lại những hình ảnh về mọi mặt cuộc sống của giáo hoàng: “Hàng ngày, trước 6h50 là tôi đã có mặt trong phòng của đức cha (giáo hoàng). Nghi lễ đầu tiên là lễ Misa, ngày nào đức cha cũng hành lễ… Sau đó, ngài tiếp khách, các nhân vật nổi tiếng, giám mục, hồng y giáo chủ, rất là nhiều người. Giáo hoàng không có thời gian rảnh. Cả ngày chỉ có cầu nguyện, công việc, cầu nguyện, công việc”.
Cũng giống như Chúa Jesus rửa chân cho các tông đồ trong Bữa tối Cuối cùng, Giáo hoàng John Paul II rửa và hôn chân của 12 tu sĩ trong ngày Thứ năm linh thiêng tại Nhà thờ St John Lateran.. |
Giáo hoàng John Paul II có tên khai sinh là Karon Wojtyla. Ông sinh ngày 18/5/1920, trong một gia đình nghèo ở miền nam Ba Lan. Cha ông, một sĩ quan quân đội, chỉ kiếm được một khoản trợ cấp nho nhỏ. Mẹ ông mất từ khi ông còn bé. Wojtyla học các trường công Ba Lan và đạt kết quả xuất sắc. Giáo hoàng tương lai giỏi cả bóng đá lẫn chèo xuồng, và bơi. Tại Đại học Jagiellonianv ở Kraków, ông tham gia hoạt động kịch nghệ, viết thơ, và làm lễ sinh.
Ngày 1/9/1939, Wojtyla đang giúp đỡ mục sư xứ đạo thì những chiếc máy bay đầu tiên của Đức Quốc xã ập đến. “Tôi dự lễ Misa dưới tiếng bom rơi và súng phòng không”, ông nhớ lại.
Wojtyla quyết định trở thành một linh mục. Khi phát xít Đức cấm các trường dòng Ba Lan hoạt động, ông học trong một ngôi trường được nhà thờ tài trợ ngầm dưới lòng đất. Để nuôi thân, ông phải làm công nhân ở một xưởng khai thác vôi, rồi sau đó tại một xí nghiệp, ngày ngày đọc những cuốn sách thần học bên cạnh cái nồi hơi.
Giáo hoàng John Paul II cầu nguyện trong lễ Mét ở nhà thờ Pauline của Vatican. |
Ông được phong chức năm 1946. Trong cùng năm đó, tập thơ đầu tiên của Wojtyla ra đời với bút danh Andrzej Jawien. Những năm tiếp theo, vị linh mục trẻ được cử tới Rome và học tại Đại học St.Thomas Aquinas (thường được biết đến dưới cái tên Anegelicum).
Sau khi được Giáo hoàng Paul VI chỉ định làm tổng giám mục vùng Kraków, ông chứng tỏ mình là một nhà ngoại giao khôn khéo và được chỉ định làm hồng y năm 1967. Trong buổi họp kín năm 1978, các hồng y khác bầu ông làm giáo hoàng.
John Paul II là giáo hoàng người Slav đầu tiên của Vatican, cũng là vị giáo hoàng đi chu du nhiều nhất. Ông nói thông thạo ít nhất 5 thứ tiếng và sử dụng được một số ngôn ngữ khác.
Bầu giáo hoàng mới
Cả Giáo hoàng Paul VI và John Paul I đều đội chiếc mũ này. |
Khi một giáo hoàng qua đời, hội đồng các hồng y - nhóm các linh mục cao cấp nhất - được triệu tới Rome để bầu ra tân giáo hoàng. Về mặt lý thuyết thì bất cứ người nào theo Thiên chúa giáo La Mã đều có thể được bầu. Nhưng trong lịch sử, các ứng cử viên chỉ giới hạn trong số chính các hồng y.
Tiến trình này được gọi tên là comclavis: “họp kín”. Từ này có nghĩa đen là “khoá kín”, xuất phát từ việc thuở trước, các hồng y bị nhốt trong một căn phòng cho đến khi ra quyết định. Để đảm báo tính bí mật trong suốt tiến trình họp và tránh áp lực ở bên ngoài, người ta xây các khu ở tạm của các hồng y tại khắp các cung điện, thư viện và viện bảo tàng Vatican.
Việc bỏ phiếu chỉ diễn ra tại Nhà thờ Sistine. Sau khi phiếu được kiểm, tất cả các lá phiếu được đốt trong một cái bếp lò nhỏ. Người ta có thể nhìn thấy ống khói của bếp lò này từ quảng trường St Peter. Những người đi qua thường nhìn vào màu khói để đoán già đoán non: màu đen có nghĩa là bỏ phiếu hỏng, màu trắng có nghĩa là một vị giáo hoàng đã được chọn ra.
Bộ áo giáo hoàng trắng mà Giáo hoàng Pius XII đã mặc trong Phòng Nước mắt năm 1939. |
Người được bầu làm giáo hoàng sau đó sẽ tiến về phía án thờ ở Nhà thờ Sistine. Nơi đây có một căn phòng cùng bộ áo trắng của giáo hoàng đang chờ đợi ông. Căn phòng được đặt tên là Phòng Nước mắt, vì người ta cho rằng sẽ có một sự xúc động nhất định, khi vị tân giáo hoàng chuẩn bị khoác lên mình bộ lễ phục. Ít phút sau, những cánh cửa kính trên balcon chính giữa của nhà thờ St Peter mở toang và các hồng y trịnh trọng bước ra nói lời thông báo chính thức.
Nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã đã trải qua 264 đời giáo hoàng, bắt đầu từ thánh Peter. 35 giáo hoàng đầu tiên được phong thánh. Vị giáo hoàng thứ 36, Liberius (thế kỷ thứ 4) vì tính tình không quyết đoán mà góp phần đưa tới những vụ cãi cọ giữa Rome và Constantinople. Ông trở thành giám mục Rome đầu tiên không được phong thánh.
Chiếc nhẫn của Giáo hoàng Pius IX. |
Pius IX, trị vì gần 1/3 thế kỷ XIX, là giáo hoàng giữ chức lâu nhất từ truớc đến nay. Năm 1846, ông lên ngôi vị giáo hoàng, áp dụng những chính sách cải cách và ân xá cho các tù nhân chính trị và những người bị lưu đày. Thế nhưng năm 1848, những nhân vật cách mạng lại bao vây văn phòng của giáo hoàng và giết chết thủ tướng Rossi của ông. Pius thoát được nhờ nguỵ trang làm một linh mục bình thường. Phải tới năm 1850 nhờ sự giúp đỡ của binh lính Pháp, Pius IX mới trở lại được thành Rome. Một thập kỷ sau đó ông phải chứng kiến cảnh tượng tất cả các vùng đất của giáo hoàng, ngoại trừ Rome và vùng phụ cận, bị cắt cho vương quốc Italy mới.
Hồi tháng 9/1870, lực lượng Italy chiếm luôn cả Rome và vương quốc của giáo hoàng không còn nữa.
Pius X là giáo hoàng cuối cùng được phong thánh. Ông qua đời vào đúng lúc Thế chiến I bắt đầu.
Pius XII lên trị vì tháng 3/1939. Ông đã thảo ra thông tri, tố cáo tư tưởng Đức Quốc xã là phản Thiên chúa giáo. Pius XII từng cố gắng ngăn chặn Thế chiến II (bắt đầu 6 tháng sau khi ông lên làm giáo hoàng). Về sau, ông bị chỉ trích là dựa quá nhiều vào những phương cách ngoại giao truyền thống, khi phải đương đầu với Đức Quốc xã.
Minh Châu (theo NG)
Phần III: Nhà thờ và Quảng trường St Peter
Phần IV: Những bộ sưu tập nghệ thuật vô giá