Đại sứ Pháp Jean-François Blarel phát biểu tại hội thảo. |
Sau nhiều tranh cãi, công ước này đã được thông qua ngày 20/10, với đa số phiếu áp đảo 148/2. Hai nước phản đối là Mỹ và Israel. Văn bản này được coi là công cụ pháp lý quốc tế, và như lời Đại sứ Pháp Jean- François Blarel, nó sẽ là “nền tảng" cho việc duy trì sự đa dạng văn hóa trong hoàn cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Theo Thứ trưởng Tư pháp Hoàng Thế Liên, là một trong những nước bỏ phiếu tán thành, Việt Nam đang trình các cơ quan có thẩm quyền xem xét để phê chuẩn công ước. Ông bình luận với giới báo chí: “Khi đã phê chuẩn, chúng ta phải thực hiện các nghĩa vụ luật của công ước. Vì vậy, Việt Nam sẽ phải biến những điều khoản thành luật trong nước, như vậy mới có cơ sở để thực hiện”.
Điểm khác biệt lớn giữa các quy định của WTO và công ước của UNESCO là WTO nhấn mạnh tự do hàng hóa, coi văn hóa là loại hàng hóa, dịch vụ có thể mua bán. Còn UNESCO khẳng định văn hóa mang tính riêng biệt, cần có sự đối xử riêng.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của hai bên cũng khác nhau. Giáo sư luật René Côté (Canada) nhận xét, theo công ước UNESCO, các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán giữa các bên liên quan, sau đó thống nhất nhờ đến trung gian. Cuối cùng, có thể dùng biện pháp hòa giải. Tuy nhiên, các quốc gia có thể thừa nhận hoặc không thừa nhận thẩm quyền của ủy ban hòa giải. Ủy ban này đưa ra một đề xuất, còn các nước có thể xem xét và rút ra kết luận theo ý họ.
Trong khi đó, WTO đòi hỏi trình tự tố tụng bắt buộc tại Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB). Mỗi giai đoạn đều định rõ thời hạn. Một bên có thể đưa ra mọi vấn đề tranh chấp ra DSB mà không cần có sự chấp nhận của bên kia.
Vì muốn đạt được sự nhất trí cao nhất nên công ước nặng về tính thỏa hiệp. Giáo sư luật Toshiyuki Kono (Nhật) cho biết nhiều vấn đề quan trọng được đặt ra chỉ dưới dạng khuyến khích thực hiện thay vì nghĩa vụ bắt buộc như tiếp cận công bằng với các nguồn văn hóa đến từ khắp các nơi trên thế giới, lồng ghép văn hóa vào chính sách phát triển, khuyến khích phát triển các quan hệ đối tác.
Những điều khoản có giá trị bắt buộc về mặt pháp lý thì đều dễ dàng thực hiện và không gây tranh cãi như “chia sẻ thông tin và thông báo cho UNESCO”, “giáo dục và tuyên truyền cho người dân” về tầm quan trọng của văn hóa.
Pháp là một trong những điển hình áp dụng chính sách bảo hộ đối với văn hóa. Theo ông Claude Michel, Chủ tịch Liên hiệp công đoàn Nghệ thuật biểu diễn FNSAC-CGT (Pháp), các kênh truyền hình nước này phải dành khoảng 60% thời lượng phát sóng cho các tác phẩm sản xuất tại châu Âu và ít nhất 40% cho các tác phẩm trong nước. Luật của Pháp cũng quy định 40% các bài hát trên đài phát thanh phải bằng tiếng Pháp.
Các chủ trương tương tự cũng được áp dụng ở những quốc gia châu Âu khác và Hàn Quốc. Hiện tượng văn hóa Hàn Quốc ở châu Á là minh chứng rõ rệt nhất về thành công của chính sách này.
Minh Châu