Người đàn bà nhỏ bé, dáng ngồi sụm xọ, khuôn mặt chị lúc nào cũng nhăn nhúm, méo mó vì khóc lóc. Mỗi ngày chị chọn một con đường, một ngã tư đèn xanh đỏ để làm nơi dừng chân, chị sẽ ngồi xuống và biểu diễn. Những con người như chị, và những màn kịch giả dối đánh vào lòng thương người như của chị đã làm những người như nó dần trở nên vô cảm.
Cái công việc vừa làm chủ, vừa nhân viên đã khiến nó phải sạo sục rất nhiều con đường ở thành phố để giao hàng mỗi ngày. Và cái công việc ấy đã tạo điều kiện cho nó nhiều lần nhìn thấy chị, trong một hình ảnh quen thuộc nhưng ở các cung đường khác nhau. Lần nào cũng vậy, nó đều ngoái lại nhìn, nhìn cái hình ảnh chị nhỏ thó, ngồi co gối ở cái nơi bao quanh là xe cộ đông đúc ồn ào, nhìn chị bất chấp cái nắng cháy ở Sài Gòn khiến mái tóc chị hoe vàng và làn da cháy sạm, nhìn gương mặt rúm ró, khóc lóc đầy đau khổ của chị.
Nó nhìn lâu nhất có thể trước khi mất hút vào dòng xe cộ tấp nập phía trước. Lần nào cũng nhìn, nhưng chẳng khi nào nó dừng lại. Nó chỉ đi tiếp, lặng lẽ với những suy nghĩ miên man. Liệu khi chị trở về chốn nương thân, cái gương mặt nhăn nhúm kia có trở lại bình thường, hay nó sẽ còn nguyên những nét đau khổ, nếp nhăn nheo in hằn giống như một mảng cao su bị mất tính đàn hồi vì co giãn vượt quá tần số cho phép?
Cái lần đầu tiên nhìn thấy chị, nó ngoái nhìn tò mò và đầy ái ngại, cũng lặng yên đầy trắc ẩn nhưng rồi nó cũng dong xe chạy thẳng. Phần thì khách hàng đang đợi, phần thì nó chả tin cái nó nhìn thấy là sự thật. Nó giật mình vì sự thờ ơ vô cảm của chính mình, có chút gì sợ hãi vì tâm hồn của một đứa con gái giàu lòng trắc ẩn, thương người như nó lại bắt đầu chai sạn. Cớ sự vì đâu? Lần lượt từng câu chuyện cũ về lòng tốt của nó lại hồi về.
Câu chuyện thứ nhất
Một buổi tối đẹp trời, cô sinh viên nhà quê là nó đạp xe trở về nhà sau giờ học ngoại khóa. Nó đạp xe chậm rãi đủ để nghe tiếng gọi của 2 bà cháu đang đi bộ nơi vỉa hè. Bà hỏi xin tiền nó, xin tiền cho cháu bé mua đồ ăn tối vì toàn bộ tiền bạc bà đem từ quê đã bị mất hết. Thương 2 bà cháu, nó vét hết gia tài được vài ngàn lẻ đưa cho bà, bởi nó cũng là sinh viên sống nhờ học bổng làm sao có nhiều tiền hơn số đó. Bon bon đạp xe về nhà, nó đạp bay bay vượt dốc cầu cao ngất ngưởng một cách nhẹ nhàng vì trong lòng nó lúc đó hưng phấn, vui vẻ lạ kỳ.
Rồi vài tuần sau đó, nó lại vô tình nhìn thấy 2 bà cháu, cũng dáng điệu vừa đi vừa quay lại phía sau tìm người giúp đỡ nhưng trên một tuyến đường khác. Nó biết mình bị lừa, cảm giác buồn nặng trĩu, nó không đạp nổi cái xe qua cầu phải vừa dắt bộ vừa cúi mặt nghĩ mông lung.
Câu chuyện thứ 2
Vào một buổi tối khác sau đó, nó và nhóm bạn rời công viên trở về sau khi đã bàn xong cái chương trình hội trại. Lúc đó cũng khoảng 10h, ngay ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai một thằng bé đang ngồi ôm gối khóc. Hỏi thăm thì được biết nó bán vé số ngủ quên, bị người ta lấy hết vé số, thằng nhỏ không có tiền đền nên không dám về. Số tiền phải đền là 300 ngàn đồng. Biết khả năng mình không giúp thằng bé hết được nhiêu đó tiền, nó dựng xe quay vào đám người đang chờ đèn đỏ kêu gọi: "Anh chị ơi, em bé này tội làm nè, em bị mất hết vé số giờ không có tiền đền, mỗi người có thể cho em bé một ít giúp được không ạ?"
Ai đó trong đám đông đáp như chửi lại nó: "Giúp ba mẹ nó thì có", "Giúp cái gì mà giúp, bị lừa rồi con". Nó cũng hơi chột dạ. Một anh thanh niên dừng lại hỏi chuyện và đưa nó 50 nghìn đồng rồi đi thẳng. Một bạn nữ khác cũng dừng lại hỏi chuyện nhưng cũng giống nó, không biết có bị lừa hay không. Đang loay hoay bối rối thì chú xe ôm lại nói: "Thằng nhỏ đó ngày nào cũng ngồi ngồi đó hết, nhiều người bị lừa rồi."
Tiếp đến 2 thằng bạn trong nhóm về sau cũng vừa tới, tụi nó hỏi chuyện và cũng nói: "Nhân thấy thằng nhỏ này mấy lần rồi My". Thôi đến đây là biết mình bị lừa rồi, đưa thằng bé 50 nghìn của ông anh hào phóng rồi lủi thủi đi về. Chả mất xu nào, mà sao lòng nó như đeo thêm tảng đá. Lần này may mà nó đã lên đời đi xe máy, không lại phải dắt bộ qua cầu nữa rồi.
Câu chuyện thứ 3, thứ 4 và thứ n là những câu chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt không đủ tạo thành câu chuyện, nhưng đủ tạo cho nó một vết sẹo về niềm tin về những mảnh đời bất hạnh. Những con người hèn kém, lười lao động giờ chả thèm ngửa tay xin tiền lẻ nữa, họ phải tạo những màn kịch để những người tốt bụng cả tin tự tìm tới và đưa tận tay họ tiền chục tiền trăm mới vừa lòng.
Rồi báo chí cứ nhan nhản lên án sự vô cảm của con người, rồi những người có khi cả đời chả cho ai quá 2 ngàn lẻ cũng nhào vô chặt chém tỏ ra ghê tởm xã hội biến chất. Họ có biết đâu, nó và rất nhiều người tốt đang phải học cách phân biệt thật giả, học cách làm ngơ và học cách vô tâm hơn với những màn kịch cuộc đời.
Trở lại với người đàn bà nhỏ bé trên, trở lại với cái gương mặt lúc nào cũng nhăn nhúm của chị, nó nghĩ: đó cũng là một hình thức lao động cực khổ, cực khổ nhưng không vinh quang. Đâu dễ gì khi phải khóc lóc hết ngày này qua ngày kia và chịu hành xác dưới mọi điều kiện thời tiết như vậy.
Rồi dạo gần đây, đi đến đâu cũng có thể nhìn thấy những con người già trẻ lớn bé nằm lăn lê, lết người bán vé số. Thật khó để tin là hầu hết trong số họ bị bại liệt. Có thế lực nào đằng sau những trò hành xác đó? Hay tự bản thân họ vứt bỏ tất cả lòng tự trọng để đánh mất chính mình?
Có lẽ trăn trở về xã hội như vậy chắc cũng đủ rồi, thôi thì bản thân cứ sống là một người tử tế. Khi giúp đỡ đồng loại thì giảm nhẹ yếu tố thật giả, đề cao lòng trắc ẩn, và hài lòng với nghĩa cử đẹp của chính mình. Mặc kệ đời dối gian.
Trà My