Trả lời:
Hầu như tất cả các bộ phận của con dê đều được dùng làm thuốc. Gần đây, có nơi nấu cao dê (chỉ dùng xương, hoặc dùng cả thịt lẫn xương để nấu cao toàn tính).
Tiết dê (dương huyết): Máu dê vừa chảy ra cho ngay vào rượu 40 độ (1 phần tiết, 3-4 phần rượu), lắc đều. Ngày uống 20-40 ml rượu này làm thuốc bổ huyết, chữa choáng váng, chóng mặt, nhức đầu, đau lưng. Theo tài liệu cổ, tiết dê có tác dụng giải những chất độc thuộc khoáng vật.
Thịt dê (dương nhục): Theo tài liệu cổ, thịt dê có vị ngọt, tính rất nóng, không độc, vào ba kinh tỳ, vị và can, có tác dụng trợ dương, bổ tinh huyết, dùng chữa ho lao, gầy yếu, phụ nữ sau khi sinh gầy yếu, khí hư, cạn sữa, huyết hôi đều dùng được. Dùng thịt tươi nấu chín cùng một số vị thuốc khác như xuyên khung, mỗi ngày dùng từ 40-60 g.
Gan dê (dương can): Chữa những trường hợp can phong hư nhiệt, mắt mờ đỏ, sau khi khỏi sốt bị mờ mắt. Mỗi ngày ăn 30-60 g nấu chín, dùng riêng hay phối hợp với một số vị thuốc khác.
Tinh hoàn dê: Trị thận yếu, tinh hoạt. Ngày dùng 25-30 g, ngâm rượu uống.
Dạ dày dê: Chữa gầy yếu, ăn vào bị nôn mửa. Ngày uống 20-30 g.
Đơn thuốc có những vị thuốc lấy từ dê.
Cao dê toàn tính: Chữa thiếu máu, hay đau bụng, gầy còm, hay đau mỏi lưng. Toàn con dê, mổ bỏ ruột, cạo lông, nấu với nước nhiều lần. Nước nấu được lọc trong, cô thành cao mềm. Ngày uống 5-10 g.
Dương quy sinh khương dương nhục thang: Chữa phụ nữ sau khi sinh xong suy yếu, gầy còm, kém ăn, ít sữa (trích ở sách Kim Quỹ): Đương quy 5 g, sinh khương 10 g, thịt dê 40 g. Nấu chín kỹ, chia làm hai lần ăn trong ngày.
Trẻ con hay ăn đất: Thịt dê 20 g nấu kỹ lấy nước cho uống.
Chữa đau nhức xương: Thịt dê 100 g, hoài sơn 100 g, gạo tẻ một ít, nấu cháo thật nhừ ăn trong ngày.
GS Đỗ Tất Lợi, Sức Khỏe & Đời Sống