Thân tre cũng được dùng chữa bệnh. |
Sau đây là một số ứng dụng khác của cây tre:
- Chữa triệu chứng sốt cấp tính, miệng khô khát: Lá tre 12 g, thạch cao 12 g, bán hạ 4 g, nhân sâm 2 g, cam thảo 1,5 g, gạo tẻ (ngạnh mễ) 7 g, mạch môn 8 g. Cho 600 ml nước, sắc còn 200 ml, chia 3 lần uống trong ngày.
- Chữa ho khan, cổ họng khô và ngứa, rêu lưỡi vàng mỏng: Lá tre 12 g, rau má 12 g, rễ dâu 12 g, quả dành dành (sao vàng) 8 g, lá chanh 8 g, cam thảo 6 g. Cho 500-600 ml nước, sắc còn 250-300 ml, chia làm 2 lần uống trong ngày. Cũng có thể tán thô, hãm vào phích, uống dần.
- Hỗ trợ chữa viêm màng phổi tràn dịch: Lá tre 20 g, thạch cao 20 g, vỏ rễ dâu, hạt rau đay, hạt bìm bìm (hắc sửu), rễ cỏ tranh, thổ phục linh, hoa mã đề mỗi thứ 12 g. Cho 600 ml nước, sắc còn 200 ml, uống hết một lần vào lúc đói. Ngày uống một thang, mỗi thang sắc 2 lần.
- Chữa nấc do nhiệt: Lá tre 20 g, tinh tre (phần dưới lớp vỏ xanh của thân tre hoặc vỏ trắng của măng tre) 20 g, thạch cao (nướng đỏ)30 g, gạo tẻ (rang vàng) 20 g, bán hạ 8 g, mạch môn (bỏ lõi) 16 g, tai quả hồng 10 cái. Cho 800 ml nước, sắc còn 300 ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng giáng hỏa, thích hợp với những người bị nấc do nhiệt, kèm theo các triệu chứng người bứt rứt, khát nước, miệng hôi, tiểu tiện đỏ, táo bón... Không dùng cho chứng nấc do hàn.
Lương y Huyên Thảo, Nông Nghiệp Việt Nam