Trả lời:
Đó là cây ráy hương, có tên khác là sơn thục, bao kim, vắt vẻo, người Tày gọi là vạt hương, tên Dao là hìa hẩu ton, tên K’Ho là T’rao yêng, là một cây thảo to. Thân, rễ thơm có nhiều xơ cứng. Lá giống lá ráy. Cây mọc tự nhiên ở miền núi, thường gặp ở rừng ẩm, ven suối, khe vực. Các tỉnh có nhiều ráy hương là Thanh Hóa, Nghệ An, Yên Bái, Đăk Lăk, Kon Tum.
Bộ phận dùng làm thuốc của ráy hương là thân rễ, thu hái vào mùa thu đông: Đào về, cắt bỏ gốc thân và rễ nhỏ, cạo vỏ ngoài, rửa sạch đất, chặt thành từng đoạn 10-20 cm, phơi hoặc sấy nhẹ cho khô. Dược liệu được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian với tên thuốc là thiên niên kiện, có vị cay, thơm, tính ấm, thường phối hợp với các vị thuốc khác theo các công thức sau:
- Chữa tê thấp, gân xương đau nhức: Thiên niên kiện 80 g, độc lực 160 g, thổ phục linh hay tỳ giải 120 g, ngưu tất hay cỏ xước 120 g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô ngâm với 1 lít rượu 30-40 độ, để càng lâu càng tốt. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần một cốc nhỏ. Hoặc thiên niên kiện 12 g, rễ bưởi bung 10 g, quả dành dành 8 g, cũng ngâm rượu uống; đồng thời, lấy lá cây ba chạc giã nát với lá tầm gửi cây sau sau, đắp.
- Chữa đau bụng kinh: Thiên niên kiện, sim rừng mỗi thứ 8 g; rễ bưởi bung, rễ bướm bạc, gỗ vang mỗi thứ 12 g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày.
- Chữa dị ứng, mẩn ngứa, lở sơn: Thiên niên kiện, củ sả, gừng mỗi loại 10 g, sắc uống trong ngày. Dùng 3 ngày liền.
Dùng ngoài, thiên niên kiện giã với muối đắp làm tan nhọt độc, nếu tán nhỏ, rây bột, rắc trừ được sâu, nhậy.
DS Bảo Hoa, Sức Khỏe & Đời Sống