Bệnh hen hay phát trong các mùa thu, đông. Theo Đông y, bệnh có 3 thể: lãnh háo, nhiệt háo (hen do cơ thể bị nội nhiệt hoặc ngoại nhiệt) và hư háo (hen do cơ thể suy nhược). Mỗi loại có cách điều trị riêng.
1. Lãnh háo
Người bệnh thở gấp, họng có tiếng khò khè, ngực bụng đầy tức, đờm trắng loãng, sắc mặt nhợt nhạt hoặc tím tái, miệng khát hoặc không khát nhưng thích uống nước ấm. Có khi kèm theo sốt, sợ lạnh, thân mình đau nhức, không ra mồ hôi, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhớt... Trong trường hợp này, cần sử dụng những vị thuốc có tác dụng chống hàn, làm ấm phổi, tiêu đờm và làm ngừng ho.
Nếu bệnh nặng, cần dùng bài Tán hành định suyễn thang: Ma hoàng 10 g, tế tân 4 g, bán hạ chế 10 g, bạch giới tử (hạt rau cải trắng) 6 g, tô tử (hạt tía tô) 6 g, ngũ vị tử 3 g, cam thảo 6 g, gừng tươi 10 g, hồng táo (táo tàu) 3 quả. Tất cả sắc với 1.000 ml nước, sắc còn 450 ml, chia ra 3 phần, uống vào buổi sáng, trưa và tối (lúc đói).
2. Nhiệt háo
Người bệnh thở gấp, tiếng thở thô, trong họng như có tiếng rít, ngực tức, ho sặc lên từng cơn, đờm vàng đặc khó khạc ra ngoài, mặt đỏ, miệng khát, thích uống nước. Kèm theo các chứng trạng như miệng đắng, sốt, ra mồ hôi, không sợ lạnh, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày... Trong trường hợp này, cần sử dụng những vị thuốc có tác dụng điều hòa hô hấp, làm mát phổi, tiêu đờm và làm ngừng cơn hen.
- Nếu bệnh nhẹ, dùng bài Ma hoàng thạch cao thang: Ma hoàng 6 g, thạch cao sống 30 g, cam thảo 5 g, sắc với 800 ml nước còn 300 ml, chia 3 lần uống (sáng, trưa, tối) lúc đói bụng.
- Trường hợp bệnh nặng, cần dùng bài Thanh nhiệt định suyễn thang: Ma hoàng 6 g, hạnh nhân 10 g, thạch cao sống 30 g, hoàng cầm 10 g, tỳ bà diệp 10 g, qua lâu bì 10 g, cam thảo 6 g. Sắc với 1.000 ml nước còn 450 ml, chia ra 3 phần, uống vào buổi sáng, trưa và tối, lúc đang đói.
3. Hư háo
Bệnh nhân thỉnh thoảng lại có những cơn hen kéo dài, người mệt mỏi, tiếng nói yếu ớt, hễ cử động là bệnh lại phát thêm nặng; môi và móng tay tím tái, chất lưỡi tối, mạch nhược... Lúc này, cần dùng các vị thuốc có tác dụng bồi bổ, tiêu đờm và bình suyễn, cụ thể là:
- Đẳng sâm 15 g, long cốt, mẫu lệ mỗi thứ 20 g; bạch truật, phục linh, ngũ vị tử, sơn thù mỗi thứ 10 g; tô tử, cam thảo mỗi thứ 6 g. Đổ 1.200 ml nước, cho long cốt và mẫu lệ vào sắc trước, sau 20 phút cho các vị còn lại vào, sắc còn 450 ml, chia ra 3 phần, uống vào buổi sáng, trưa và tối, lúc đang đói.
Bài thuốc này còn có tác dụng củng cố cơ thể trong thời kỳ bệnh tạm hoãn. Nếu thấy hay ra mồ hôi, sợ gió, dễ bị cảm lạnh thì cho thêm các vị thuốc "hoàng kỳ" và "phòng phong" vào để bồi bổ tạng phế. Nếu thấy kém ăn thì cho thêm "trần bì" vào để tăng tác dụng kiện tỳ. Nếu thấy lưng gối đau mỏi, hơi hoạt động một chút là tim đập loạn, thì nên sử dụng thêm "thận khí hoàn" (thuốc viên bổ thận) để bồi bổ tạng thận.
Lương y Huyên Thảo, Sức Khỏe & Đời Sống