Hiện nay, số lượng trang web phổ biến phục vụ cho việc cung cấp thông tin kinh doanh và cơ hội giao thương còn rất ít, lại chưa được cập nhật thường xuyên.
TMĐT ở Việt Nam chưa phát triển còn do cước truy cập Internet ở mức khá cao so với các nước trong khu vực (gấp trên 3 lần) và so với thu nhập của đại đa số dân chúng. Trong khi đó, tốc độ truy cập lại thấp. Hiện nay, ở các nước trong khu vực, cáp sợi quang và băng thông rộng đã được sử dụng phổ biến nhằm nâng cao tốc độ kết nối Internet (số người truy cập Internet băng thông rộng ở Hàn Quốc là 96%, Hồng Kông 58%, Đài Loan 40% và Singapore 24%). Trong khi ở Việt Nam, những tiện ích này mới chỉ là mục tiêu phấn đấu trong vài năm tới. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải trả một mức phí khá cao so với lợi ích thu được để xây dựng trang web hoặc biến các trang web của họ thành website TMĐT. Mức chi phí cao này cũng là yếu tố hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp - nhân tố chính của TMĐT.
Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực TMĐT chủ yếu được ban hành vào năm 1997, nay đã trở nên sơ sài, không đủ để cung cấp một khuôn khổ pháp lý cần thiết để có thể theo kịp yêu cầu phát triển của lĩnh vực này. Tuy trong Luật Thương mại năm 1997, điều 49 đã thừa nhận tính chất pháp lý của các văn bản dưới dạng điện tử, nhưng đến nay Nhà nước vẫn chưa ban hành văn bản pháp lý chi tiết nào về TMĐT như công nhận chữ ký điện tử, giao dịch điện tử, chứng thực điện tử... Đây là rào cản rất lớn đối với việc phát triển TMĐT ở Việt Nam, vì các doanh nghiệp trong và ngoài nước chỉ có thể tham gia TMĐT khi họ được đảm bảo rằng hệ thống pháp luật Việt Nam hỗ trợ và công nhận hoạt động kinh doanh thực hiện thông qua việc ứng dụng CNTT.
Bất cứ một giao dịch TMĐT nào cuối cùng cũng dẫn tới mô hình thanh toán. Vì vậy, một liên minh ngân hàng và các nhà cung cấp dịch vụ TMĐT là cần thiết. Trên thực tế, hệ thống thanh toán điện tử của các ngân hàng Việt Nam chưa phát triển để có thể đáp ứng các yêu cầu của TMĐT, do mức đầu tư cho CNTT ở phần lớn những ngân hàng Việt Nam còn quá thấp. Thanh toán không dùng tiền mặt cũng như phát triển các loại thẻ thanh toán điện tử còn hạn chế trong phạm vi hẹp hoặc mang tính chất thử nghiệm, chứ chưa trở thành giải pháp tổng thể đối với từng ngân hàng.
Cho đến nay, ở Việt Nam còn nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại tiêu chuẩn công nghiệp và thương mại đối với TMĐT. Ngay cả đối với thương mại truyền thống, theo các chuyên gia, để xây dựng hệ thống này đòi hỏi không chỉ vài năm. Tiến trình này là một trong số các tác nhân góp phần cản trở việc chấp nhận thanh toán điện tử trong TMĐT ở Việt Nam.
Công nghệ bảo mật thông tin dùng trong TMĐT cũng chưa phát triển và còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chính vì vậy mà việc bảo mật thông tin giao dịch kinh tế, thương mại và ngân hàng còn nhiều hạn chế.
Như vậy, hiện nay ở Việt Nam, một loạt vấn đề về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng pháp lý liên quan đến TMĐT vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, đề xuất xây dựng. Thực tế này khiến Việt Nam tụt hậu xa so với các nước châu Á, như Singapore, Malaysia, về mức độ chấp nhận và ứng dụng TMĐT.
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn