Tiến sĩ Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội Tin học TP HCM. |
Song năm 2001, tốc độ tăng trưởng bắt đầu chậm lại. Ông Lê Trường Tùng cho biết, năm ngoái thị trường CNTT của Việt Nam đạt khoảng 340 triệu USD, trong đó phần cứng chiếm 280 triệu USD, còn phần mềm và dịch vụ 60 triệu USD. Mặc dù năm 2001 thị trường công nghệ cao tăng 4% so với năm trước, đây vẫn là mức tăng trưởng chậm so với tỷ lệ trung bình 49% trên thế giới. Tỷ lệ này thấp do hai nguyên nhân:
- Mất cân đối nghiêm trọng giữa đầu tư cho CNTT và đầu tư cho phần mềm/dịch vụ, dẫn tới hiệu quả đầu tư CNTT thấp.
- Tình trạng vi phạm bản quyền cao.
Theo đánh giá của Liên minh phần mềm thương mại (BSA), trong tháng 6/2001, Việt Nam vẫn đứng đầu thế giới về tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm với 94%, giảm 3% so với năm trước.
Còn công ty kế toán Andersen (Mỹ) thì cho rằng, cơ sở hạ tầng lạc hậu và sự kìm kẹp thông tin quá chặt chẽ của chính phủ là những nguyên nhân chính gây cản trở đầu tư của các công ty nước ngoài.
Mặc dù các ISP liên tục tung ra các chiến dịch quảng cáo hấp dẫn, tốc độ tăng số thuê bao Internet ở Việt Nam vẫn ngày càng chậm so với tỷ lệ tăng trưởng trung bình của thế giới. Theo ông Tùng, đây cũng là dấu hiệu cho thấy các dịch vụ ISP thuần tuý đang chết dần, những ISP vừa ra đời không thể tồn tại nếu không đa dạng hoá dịch vụ và triển khai các dịch vụ giá trị gia tăng.
Theo thống kê của Trung tâm thông tin mạng Internet Việt Nam (VNNIC) thuộc Tổng cục Bưu điện, số thuê bao Internet đến tháng 6 năm nay chỉ đạt 175.000, tăng 30% so với năm 2001. Đây là con số tăng trưởng tương đối chậm so với 79 triệu dân. Đối tượng sử dụng Internet ở Việt Nam chủ yếu là các cơ quan, dùng chung thuê bao hoặc dùng thẻ.
Các nhà quan sát cho rằng mật độ sử dụng máy tính cá nhân và điện thoại thấp cũng là rào cản đối với sự phát triển Internet ở Việt Nam, kể từ khi World Wide Web được triển khai lần đầu tiên tại đây vào năm 1997 (khi chỉ có khoảng 3,2 đường điện thoại/100 người).
Ông Tùng cho rằng, tốc độ Internet phát triển chậm đã ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của thị trường phần mềm và gây nhiều khó khăn trong việc thu hút nguồn đầu tư.
CNTT Việt Nam phát triển chưa đồng đều. |
Công tác đào tạo CNTT cũng còn nhiều bất cập
. CNTT VN là ngành đang được đào tạo ở nhiều trường, với con số gần 250 cơ sở từ trung cấp hoặc tương đương trở lên. Chỉ cần mỗi trung tâm đào tạo 100 học viên có chất lượng/năm, việc đạt con số 20.000 nhân lực CNTT/năm ở các trình độ khác nhau khi ra trường không phải việc khó và chỉ tiêu số lượng 50.000 chuyên viên CNTT đạt được khá dễ dàng.Nhưng ông Nguyễn Thanh Sơn (ĐH Quốc gia TP HCM) cho rằng phương thức đào tạo CNTT ở Việt Nam hiện không nhất quán. Xu hướng muốn "ăn liền" đang thu hẹp diện đào tạo để phục vụ yêu cầu trước mắt, trong khi cần phải đào tạo theo diện rộng để phục vụ cho tương lai.
Mới đây, TS Trần Hữu Lệ (công ty Paragon Solution Việt Nam - PSV) than phiền rằng: "Một cử nhân học 3 năm ở Canada thì hơn nhiều lần một cử nhân được đào tạo 5 năm ở Việt Nam". Ông cho biết, khi công ty của ông tuyển người thì chỉ có 8% đáp ứng được yêu cầu của công ty trong nước và 4% đủ điều kiện làm việc ở nước ngoài. Còn ông Nguyễn Ngọc Bình (ĐH Bách Khoa Hà Nội) thì băn khoăn: "Mới đây có một công ty nước ngoài đến Việt Nam tuyển 30 lập trình viên, nhưng tuyển đến mấy tuần liền mà chỉ được có mấy người. Sau đó, công ty này quay sang Thái Lan, chỉ sau vài ngày họ đã tuyển đủ và tuyên bố cắt phần đã tuyển tại Việt Nam".
Theo ông Tùng, tốc độ phát triển các cơ sở đào tạo đã vượt nhu cầu nhân lực về số lượng, khả năng trong vài năm tới các trường ồ ạt tung ra hàng loạt chuyên viên CNTT chất lượng thấp là điều có thể nhìn thấy trước.
M.N. (theo AFP, NLĐ)