Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can
143. Bị can Nguyễn Minh Khánh (Khánh "Bà Mì")
a. Lý lịch bị can
- Sinh năm 1968 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 94/7A tổ 39, khu phố 3, Tân Thuận Đông, quận 7, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 5/12
- Cha: Nguyễn Văn Minh
- Mẹ: Nguyễn Thị Kim Loan
- Vợ: Nguyễn Thị Yến
- Con: 1 người con, sinh 1983
b. Quá trình hoạt động
Từ 1968 đến 1979 còn nhỏ sống với cha mẹ, đi học hết lớp 5/12. Từ 1979 đến 1984 nghỉ học làm mướn. Ngày 2/9/1985 phạm tội cướp giật tài sản công dân, TAND TP HCM xử 3 năm tù, ra tù ngày 4/11/1988. Tháng 10/1991, gây rối trật tự công cộng, Công an phường Cô Giang bắt đưa đi cưỡng bức lao động tại Tân Uyên, Sông Bé đến tháng 2/1992. Ngày 13/9/2001 sử dụng trái phép chất ma túy, Công an phường lập hồ sơ cảnh cáo. Ngày 15/9/2001, sử dụng trái phép chất ma túy, Công an phường lập hồ sơ cảnh cáo. Ngày 3/10/2001, tàng trữ trái phép chất ma túy, Công an phường Cô Giang bắt, Công an quận 1 lập hồ sơ cảnh cáo.
- Tiền án: 1
- Tiền sự: 5
- Tạm giam: 11/4/2002
c. Hành vi phạm tội
Cuối năm 1995, Nguyễn Minh Khánh đã đến khách sạn Minh Thắng của anh Nguyễn Minh Đức quậy phá không cho khách đến khách sạn ăn, nghỉ rồi bắt chủ khách sạn phải chi tiền “bảo kê” hàng tháng cho Khánh nếu không Khánh sẽ tiếp tục quậy phá. Do đó kể từ tháng 1/1996 đến tháng 2/2002 anh Nguyễn Minh Đức chủ khách sạn Minh Thắng đã phải đưa cho Nguyền Minh Khánh mỗi tháng 1,5 triệu đồng; tổng số tiền mà Khánh chiếm đoạt trong 73 tháng là 109.500.000 đồng. Với các tài liệu chứng cứ thu được có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Minh Khánh phạm tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điểm d, khoản 2, điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN cần phải đưa truy tố trước pháp luật.
144. Bị can Đỗ Đạt Giang
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày 15/7/1968 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 147 Thích Quảng Đức, phường 4, Phú Nhuận, TP HCM
- Chỗ ở: 21/15A Trường Sơn, phường 4, Tân Bình, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 6/12
- Cha: Đỗ Văn Tu (chết)
- Mẹ: Nguyễn Thị Phương Hải, sinh 1935
- Vợ: Lê Thị Trúc Phượng, vợ 2 Nguyễn Thị Mỹ An
- Con: 1 người con
b. Quá trình hoạt động
Từ nhỏ đến 1985, sống chung với cha mẹ đi học hết lớp 6/12, sau đó nghỉ học ở nhà. Từ 1985 đến 1989 tuổi làm thuê tại quận 6. Từ 1989 đến 1992, buôn bán. Từ 1993 đến 1994, lái xe cho Bộ Lâm nghiệp. Từ 1994 đến 1997 làm ở khách sạn Sơn Lâm. Năm 1999 đến tháng 11/2001, ở tại 21/15 Trường Sơn, không làm công việc gì.
- Tiền án: Năm 1996 can tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, bị TAND quận Phú Nhuận xử 6 tháng tù cho hưởng án treo.
- Tiền sự: Tháng 6/1996 gây tai nạn giao thông. PC16 TP HCM lập hồ sơ đề nghị truy tố, VKSND TP HCM đình chỉ điều tra. Ngày 30/11/1995, PC25 bắt tội gây rối trật tự công cộng.
- Tạm giam: 7/1/2002
c. Hành vi phạm tội
Đỗ Đạt Giang là đối tượng hình sự hoạt động trong băng nhóm của Trương Văn Cam nhiều năm, có mối quan hệ đặc biệt với Sáu Được, trong quá trình phạm tội y đã sử dụng uy tín của giới giang hồ để phô trương thanh thế nhằm cưỡng đoạt tài sản.
Năm 1997, Đỗ Đạt Giang và Nguyễn Thanh Tuyền đã thuê căn nhà 21/15A đường Trường Sơn để chung sống với nhau như vợ chồng. Năm 1998 chị Nguyễn Thanh Tuyền đã bỏ tiền ra mua căn nhà này của anh Trần Huy Hoan với giá 52 lượng vàng (Tuyền đã trả cho anh Hoan 45 lượng vàng), nhưng sau đó đã bị Giang cưỡng đoạt bằng cách ép Tuyền phải để Giang ký vào giấy bán nhà, phải giao giấy tờ căn nhà này cho Giang và phải viết giấy xác nhận cam kết không tranh chấp căn nhà này với Giang. Giá trị tài sản đã chiếm đoạt chính là 45 lượng vàng mà chị Tuyền đã thanh toán trả cho anh Hoan khi mua nhà. Ngoài ra Giang còn cưỡng đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc Nương 5 lượng vàng; cưỡng đoạt của chị Lê Thị Hồng Ngọc 100 triệu đồng; Cưỡng đoạt của anh Lâm Hưng Quốc 20 triệu đồng. Tổng số tài sản mà Giang đã chiếm đoạt được là 50 lượng vàng và 130 triệu đồng. Quá trình đấu tranh, Giang ngoan cố khai báo quanh co, chối tội không thừa nhận hành vi sai phạm nhằm trốn tránh nhiệm. Với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được nêu trên, có đủ cơ sở kết luận Đỗ Đạt Giang phạm tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điểm a, khoản 3, điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN.
Tài sản và tang vật thu giữ
- 11.000.000 đồng
- 1 ngân phiếu 1 triệu đồng
- 550 USD
- 1 máy vi tính xách tay
- 2 đồng hồ GuGic
- 0,6 lượng vàng trang sức
- 1 dao thái lan và 1 dao bầu
- 1 la bàn
- 1 đĩa CDRom
- 2 ĐTDĐ Nokia và Motorola
Tài sản kê biên:01 căn nhà số 21/15 Trường Sơn, phường 4, Tân Bình.
145. Bị can Trần Văn Minh (Minh "Cuội")
a. Lý lịch bị can
- Sinh năm 1963 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 152/1 Trần Xuân Soạn, phường Tân Hưng, quận 7, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 4/12
- Cha: Trần Văn Cuội
- Mẹ: Nguyễn Thị Châu
- Vợ: Trần Thị Hồng Phượng
- Con: 1 con trai, sinh năm 1996
b. Quá trình hoạt động
Từ 1963 đến 1982 còn nhỏ đi học hết lớp 4/12. Từ 1983 đến 1985 cải tạo tại trại Đồng Phú 3 về tội cướp giật tài sản công dân. Từ 1986 đến nay làm dân phòng tại chợ cá Cầu Ông Lãnh.
- Tiền án: 1
- Tiền sự: không
- Tạm giam: 7/1/2002
c. Hành vi phạm tội
Trần Văn Minh là một đối tượng hình sự thường quậy phá, gây rối trật tự công cộng tại khu vực chợ cá Cầu Ông Lãnh và đã bị đưa đi cưỡng bức lao động, làm cho các hộ kinh doanh tại chợ rất lo sợ bị Minh quậy phá. Đặc biệt sau khi đi cưỡng bức lao động về, Minh được đưa vào tổ dân phòng của phường thì uy thế của Minh càng lớn hơn. Mặc dù đã được trả lương hàng tháng nhưng Minh vẫn tìm cách và chỉ đạo cho Lê Văn Thơm đi thu tiền bảo kê của một số chủ ô cá, cụ thể đã thu của Lê Thị Lắm mỗi tháng 600.000 đồng, tổng số đã thu được 12 tháng bằng 7.200.000 đồng; thu của chị Đặng Thị Kim Nho mỗi tháng 200.000 đồng, tổng số đã thu được 12 tháng bằng 2.400.000 đồng. Với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có đủ cơ sở kết luận Trần Văn Minh và Lê Văn Thơm phạm tội Cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại khoản 1, điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN, cần phải đưa truy tố trước pháp luật, trong đó Trần Văn Minh là đối tượng có vai trò cầm đầu, chủ mưu còn Lê Văn Thơm là người thực hiện.
Tài sản và vật chứng thu giữ: 1 xe máy Honda
146. Bị can Lê Văn Thơm (Thơm "Đui")
a. Lý lịch bị can
- Sinh năm 1962 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 177X Bến Chương Dương, Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM
- Chỗ ở: 290/14 Dương Bá Trạc, phường 1, quận 8, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 2/12
- Cha: Hồ Văn Hải (chết)
- Mẹ: Lê Thị Hạnh, sinh 1941
- Vợ: Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Thị Dung (không hôn thú)
- Con: 4 người con.
b. Quá trình hoạt động
Từ 1961 đến 1975 còn nhỏ ở với cha mẹ tại 177X Bến Chương Dương. Từ 1975 đến 1980 đi kinh tế mới tại Long Hòa 2, Bến Cát, Sông Bé. Từ 1980 đến 1982 đi cưỡng bức lao động tại Duyên Hải, hành vi trộm cắp tài sản công dân. Từ 1982 đến 1985 đạp xích lô. Từ 1985 đến 1989 bốc vác tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, quận 1. Từ 1989 đến 2002 bốc xếp tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, quận 1. Hiện nay ở số 290/14 Dương Bá Trạc, phường 1, quận 8.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: 1
- Bị can tại ngoại
c. Hành vi phạm tội
Lê Văn Thơm là bảo vệ dân phòng phường Cầu Ông Lãnh, quận 1 được tuyển vào làm việc từ năm 1987 đến tháng 3/2002 thì nghỉ việc. Ngoài nhiệm vụ được giao làm công tác an ninh trật tự tại khu vực chợ cá thì Lê Văn Thơm được Trần Văn Minh giao nhiệm vụ hằng tháng trực tiếp đến 2 ô cá của Lê Thị Lắm (Năm Mọi) và Đặng Thị Kim Nho thu tiền bảo kê (trong 12 tháng). Số tiền thu được, Thơm đưa lại cho Trần Văn Minh, Minh trực tiếp đưa cho Thơm mỗi tháng từ 120.000 đến 200.000 đồng. Giá trị tài sản, Minh và Thơm đã cưỡng đoạt là 9.600.000 đồng.
Căn cứ vào tài liệu chứng cứ thu thập được, lời khai của bị hại và lời khai nhận tội của Lê Văn Thơm, Cơ quan Cảnh sát điều tra đủ cơ sở kết luận Lê văn Thơm đồng phạm về tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh quy định tại khoản 1, điều 135 BLHS.
147. Bị can Trần Văn Tâm (Tâm "Ken")
a. Lý lịch bị can
- Sinh năm 1965 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 91/3 Bến Chương Dương, Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM
- Chỗ ở: Hẻm 114 Bến Chương Dương, Nguyễn Thái Bình, quận 1, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 2/12
- Cha: Trần Văn Cuội
- Mẹ: Nguyễn Thị Châu
b. Quá trình hoạt động
Từ 1965 đến 1976 còn nhỏ, ngụ tại Bến Chương Dương, Cầu Ông Lãnh, quận 1. Từ 1976 đến 1980 làm rẫy tại Tây Ninh. Từ 1980 đến 1983 cải tạo tại trại Cái Tàu-Đồng Tháp, can tội đánh người gây thương tích. Từ 1983 đến 1993 làm công. Từ 1993 đến 1996 cai nghiện ma túy tại trại Phú Văn, Bình Phước.
- Tiền án: 1
- Tiền sự: 4 lần đi cai nghiện
- Tạm giam: 7/1/2002
c. Hành vi phạm tội
Trần Văn Tâm là một đối tượng nghiện hút, thường quậy phá tại khu vực chợ cá Cầu Ông Lãnh làm cho các tư thương buôn bán tại chợ rất lo sợ. Tâm là em ruột của Trần Văn Minh là một đàn em đắc lực của Châu Phát Lai Em và Trương Văn Cam, bọn chúng thường quậy phá tại khu vực chợ cá Cầu Ông Lãnh làm cho các tư thương không buôn bán được nếu như không tuân thủ theo yêu cầu của chúng. Chính vì vậy mà mỗi khi Tâm đến xin tiền thì các hộ kinh doanh tại đây đều phải cho Tâm tiền để Tâm không quậy phá, thậm chí khi xin cá thì Tâm lấy bất kể con cá nào mà Tâm muốn chứ không cần có sự đồng ý của chủ. Với lời khai nhận tội của Tâm, kết hợp với lời khai của các chủ ô cá thấy Trần Văn Tâm đã dùng thủ đoạn đe dọa để cưỡng đoạt tài sản của 9 chủ ô cá ở chợ Cầu Ông Lãnh, hiện nay các chủ cá đều khai đã kinh doanh cá ở chợ hàng chục năm nay và đã nhiều lần Tâm đến cưỡng đoạt bằng hình thức “xin đểu”. Mỗi lần Tâm đến xin thì các chủ ô cá đã chi cho Tâm ít nhất là 20.000 đồng, cao nhất là 100.000 đồng. Như vậy có thể xác định số tiền mà Tâm đã cưỡng đoạt của các chủ ô cá lên đến hàng chục triệu đồng.
Với các căn cứ này có đủ cơ sở kết luận Trần Văn Tâm phạm tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN, cần phải đưa truy tố trước pháp luật.
Tài sản và tang vật thu giữ: 1 ĐTDĐ Nokia 8210
148. Bị can Nguyễn Kim Thịnh (Thịnh "Già")
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 3/1/1963 tại TP HCM
- ĐKNKTT: L30 cư xá Vĩnh Hội, phường 6, quận 4, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Trình độ văn hóa: 12/12
- Cha: Nguyễn Kim Sây (chết)
- Mẹ: Nguyễn Thị Phượng (chết)
b. Quá trình hoạt động
Từ 1963 đến 1968 còn nhỏ ở với gia đình. Từ 1968 đến 1975 học tại PTCS Chi Lăng, quận 4. Từ 1975 đến 1982 học tại trường PTTH Nguyễn Trãi, quận 4. Từ 1983 đến 1986 học nghề tiện hàn. Từ 1987 đến 1988 đi nghĩa vụ quân sự đóng tại mặt trận 479 Campuchia. Từ 1989 đến 1998 làm thợ tiện tại 177/178 Bùi Hữu Nghĩa, quận 5. Từ 1999 đến 6/1/2002 làm ở HTX bốc xếp số 1 Bến Chương Dương, quận 1, TP HCM. Ngày 7/1/2002 bị cơ quan điều tra bắt về tội tổ chức đánh bạc.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Tạm giam: 7/1/2002
c. Hành vi phạm tội
Nguyễn Kim Thịnh được Châu Phát Lai Em xin vào làm bốc xếp tại chợ cá Cầu Ông Lãnh từ năm 1999. Sẵn có quan hệ với Lai Em nên Lai Anh tin cậy Nguyễn Kim Thịnh. Từ tháng 10/2000 đến khi bị bắt, Lai Anh giao tiền cho Thịnh để Thịnh cho 17 người dân làm nghề bốc xếp, chạy xe ba gác ở chợ cá Cầu Ông Lãnh vay tiền. Hàng ngày, Thịnh đi thu tiền trả góp, tiền lãi đứng của các con nợ cho Lai Anh. Cứ 10 ngày thì Thịnh giao tiền lãi cho Lai Anh, được Lai Anh cho từ 150.000 đến 200.000đ. Một tháng Thịnh giao cho Lai Anh 3 lần, được Lai Anh cho từ 500.000 đến 600.000 đồng. Trong quá trình giao nhận tiền cho Lai Anh, nếu phát hiện ai có nhu cầu vay tiền thì Thịnh báo cho Lai Anh biết để Lai Anh quyết định. Tổng cộng Thịnh được Lai Anh cho 7,5 triệu đồng. Hành vi trên của Thịnh đã giúp sức cho Lai Anh trong việc cho vay lãi nặng và được hưởng quyền lợi từ nguồn tiền cho vay lãi nặng thu nhập bất chính. Do đó, cần phải xử lý trách nhiệm hình sự trước pháp luật. Trong khi xét xử có chiếu cố vì Thịnh có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Do nhận thức pháp luật hạn chế, không biết đi thu tiền cho Lai Anh là phạm tội, mức độ được hưởng quyền lợi không lớn.
Căn cứ vào tài liệu ban đầu (lời khai của Lai Em), Cơ quan Cảnh sát điều tra đã bắt Thịnh về tội tổ chức đánh bạc. Khi mới bị bắt, do bị hoang mang, Thịnh khai cùng với Lai Anh, Bé Em mở trường đá gà ăn tiền để thu tiền xâu với vai trò coi xe, chăm sóc gà, được Lai Anh và Bé Em cho tiền.
Quá trình điều tra xác định có đủ căn cứ Nguyễn Kim Thịnh không phạm tội tổ chức đánh bạc mà chỉ phạm vào tội cho vay lãi nặng. Tội danh được quy định tại điều 163 BLHS.
Tài sản và vật chứng thu giữ
- 1 ĐTDĐ Nokia 8250
- 4 cuốn sổ ghi chép tên, số tiền Thịnh cho vay lãi nặng
Còn nữa