Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can
142. Bị can Nguyễn Bá Phong (Phấn)
a. Lý lịch bị can
- Sinh năm 1957 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 19 Nguyễn Thái Bình, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, TP HCM.
- Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: Đại học
- Con ông: Nguyễn Bá Vân (chết)
- Con bà: Lý Thị Phụng (chết )
- Vợ: Võ Thị Nga, sinh 1957,
- Con: 3 con, lớn nhất 17 tuổi, nhỏ 8 tuổi.
b. Quá trình hoạt động bản thân
Còn nhỏ đi học và làm nghề sửa xe gắn máy. Tháng 7/1977 đến 1981: Tham gia công tác phường đội, phường Cô Giang, quận 1, TP HCM. Tháng 10/1981 đến 5/1983: Học trường Đảng Nguyễn Văn Cừ, TP HCM. Tháng 6/1983 về công tác tại Viện kiểm sát quận 1 cho đến khi bị bắt; năm 1988 được bổ nhiệm kiểm sát viên sơ cấp; năm 1996 được bổ nhiệm Phó viện trưởng Viện kiểm sát quận 1; năm 1999 được bổ nhiệm Viện trưởng.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Tạm giam: 24/5/2002
c. Hành vi phạm tội
Là một cán bộ công tác lâu năm trong ngành viện kiểm sát, với chức vụ là Viện trưởng Viện kiểm sát quận 1, Nguyễn Bá Phong đương nhiên phải thấy rõ hành vi của tên Châu Phát Út có 3 tình tiết để định khung hình phạt ở khoản 2 điều 104: Dùng hung khí nguy hiểm; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân và có tính côn đồ. Ông Lê Mạnh Quân, Phó viện trưởng đã có ý kiến là phải xử lý bị can ở khoản 2 nhưng Nguyễn Bá Phong vẫn cố tình đưa hành vi phạm tội của Út về khoản 1 để đình chỉ điều tra.
Ngoài ra năm 2001, khi Công an quận 1, TP HCM lập hồ sơ đề nghị đưa Châu Phát Út đi cơ sở giáo dục bắt buộc, bị can Phong đã có văn bản can thiệp không đưa Út đi. Việc làm này cho thấy bị can Phong đã có hành vi bao che là có hệ thống cho Châu Phát Út. Hành vi của Nguyễn Bá Phong đã tiếp tay cho tội phạm, tạo điều kiện cho Châu Phát Út tiếp tục lộng hành, coi thường pháp luật gây mất lòng tin của nhân dân vào các cơ quan luật, không dám tố cáo hành vi phạm tội của bọn chúng. Vì vậy hành vi của Nguyễn Bá Phong cần xử lý nghiêm để làm gương cho kẻ khác và lấy lại lòng tin của nhân dân.
Hành vi của bị can Nguyễn Bá Phong đã phạm vào tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, tội danh được quy định tại điều 294 BLHS năm 1999 cần xử lý nghiêm minh.
Còn nữa