V. Rossi trên chiếc RCV211V. |
Với chiếc RC211V, Valentino Rossi đã giành chức vô địch giải Moto Grand Prix thế giới sớm hai vòng đua khi chiến thắng chặng đua ở Sepang-Malaysia ngày 12/10/2003. Đây là chức vô địch thế giới lần thứ 3 liên tiếp của Valentino Rossi với Honda. Chiến thắng này đã giúp tay đua 24 tuổi người Italy trở thành một huyền thoại ngang hàng với các tay đua lừng danh trong lịch sử như Geoff Duke (Anh) của đội Gilera hay John Surtees (Anh) của đội MV Augusta, hay gần nhất là Kenny Robert (Mỹ) đội Yamaha. Danh hiệu này cùng với chức vô địch của tay đua trẻ người Tây Ban Nha Daniel Pedrosa ở hạng 125 cc còn giúp đội đua Honda nâng cao vị thế của một hãng sản xuất hàng đầu.
Động cơ của xe, có cùng tên RC211V, được trang bị cho toàn bộ các xe của đội đua Honda. Phiên bản RC211V năm 2003 về cơ bản không có gì thay đổi ngoài việc thay mới hệ thống nạp khí. Đội Honda ở hạng Moto GP vốn chia thành 4 đội nhỏ. Valentino Rossi đầu quân cho Repsol Honda với xe số 46 cùng tay đua còn trẻ hơn mình là Nicky Hayden (xe 69). Cuộc đua năm nay ở hạng GP cho đến những chặng cuối dường như chỉ là cuộc chiến nội giữa các tay đua Honda với 3 vị trí hàng đầu là Valentino Rossi ( xe 46, đội Repsol Honda), Sete Gibernau (xe số 15, đội Telefonica Movistar Honda) và Max Biaggi (xe số 3, đội Camel Pramac Pons). Đây là các thành viên lừng danh nhất của 3 trong 4 đội đua thuộc Honda và đều sử dụng xe RC211V. Honda đã chứng tỏ sức mạnh hơn hẳn của RC211V so với những đối thủ khác. Ngôi vô địch năm nay ở hạng GP là sự kết hợp giữa một chiếc siêu xe và một cá nhân kiệt xuất.
RC211V đáp ứng được tất cả những điều lệ bắt buộc trong thể thức đua GP như trọng lượng tối thiểu cho động cơ 4 hoặc 5 xi-lanh, các thông số về độ ồn của xe trước và sau khi đua. Trong khi các đối thủ lớn khác như Yamaha, Suzuki, và một nhà sản xuất năm nay mới tham gia thể thức GP là Ducati trung thành với động cơ 4 xi-lanh thì Honda đã lần đầu tiên đưa vào thi đấu động cơ 5 xi-lanh bố trí theo hình chữ V. Tên gọi RC đã gắn với đội đua Honda với những chiếc xe huyền thoại như RC143, RC166, RC181 hay RC30 (năm 1987); số hiệu 211 đánh dấu chiếc xe đua mới đầu tiên của Honda trong thế kỷ 21; còn V vừa chỉ con số 5 xi-lanh (theo chữ số La Mã), để thể hiện đây là động cơ loại V. Như vậy, qua tên gọi có thể nhận biết được rất nhiều điều cơ bản về chiếc RC211V.
RC211V được Honda bắt đầu tiến hành nghiên cứu từ năm 2000 và chạy thử lần đầu tại trường đua Sportland Sugo (Miyagi - Nhật Bản) vào tháng 4/2001. Mục tiêu của nhóm phụ trách là vượt qua kỷ lục về tốc độ và công suất của chiếc NSR 500 2 kỳ. Sức bền động cơ được thử thách bằng một hành trình liên tục 8 tiếng đồng hồ.
Đuôi xe. |
Bảng đồng hồ. |
Máy xe. |
Ngày 7/4/2002, lần đầu tiên RC211V ra mắt tại GP Nhật Bản, ở trường đua Suzuka. Chiếc xe gắn động cơ V5 trục cam kép DOHC (3 xi-lanh hướng ra phía trước và 2 hướng ra sau), góc nghiêng là 75,5o. Dung tích công tác động cơ 990 cc, mỗi xi-lanh có 4 van. Cỗ máy này cho công suất đầu ra 220 mã lực ở 14.000 vòng/phút (của NSR 500 chỉ là hơn 180 mã lực). So với những xe thể thao dân dụng hàng đầu như CBR1000RR hay Ducati 999R, đây quả là chiếc xe có "công lực thâm hậu". Động cơ được làm mát bằng két nước với hệ thống đánh lửa được lập trình sẵn CDI, hệ thống phun xăng điện tử PGM-FI (Programed Fuel Injection) điều khiển qua ECU gắn bộ vi xử lý 16 bit hay mới hơn là 32 bit. RC211V được trang bị khung kết cấu hợp kim hoàn toàn, giúp giảm trọng lượng. Xe có chiều dài lớn hơn 40 mm so với NSR 500. Bình xăng được khống chế ở mức 24 lít cho mùa giải 2002, 2003 và dưới 22 lít bắt đầu từ mùa giải tới.
Động cơ xe RC211V. |
Hệ thống treo trước là loại Telescopic do Showa thiết kế được liên kết với hệ thống chống rung tay lái. Treo sau là hệ thống Unit Pro-Link do Honda thiết kế, với giảm chấn monoshock của Showa, đây là bước phát triển tiếp của hệ thống Pro-Link gắn trên NSR 500. Qua đó, độ rung của xe được triệt tiêu đáng kể, tăng sự ổn định và thuận tiện cho các nhà thiết kế trong việc chế tạo khung xe. Hệ thống phanh trước với 2 đĩa phanh carbon và phanh Brembo, phanh sau với đĩa phanh carbon do HRC sản xuất và guốc phanh Brembo. Vành được làm hoàn toàn từ magnet giúp giảm trọng lượng, vành trước đường kính 17 inch và sau 16,5 inch lắp lốp của hãng Michelin. Xe trang bị hộp số 6 cấp với độ chính xác cao, xích do Regina sản xuất, toàn bộ vỏ khí động học bên ngoài được làm từ sợi carbon, ống xả bằng titan. Bảng đồng hồ thiết kế mới, đơn giản và đầy đủ với đồng hồ đo vòng tua Analog nằm xen với bảng đồng hồ tinh thể lỏng đa năng. RC211V có thể đạt được tốc độ tối đa 320 km/giờ (Rossi từng đạt vận tốc 305 km/giờ).
Thông số kỹ thuật xe Honda RC211V | |
Chiều dài toàn thể |
2.050 mm |
Chiều rộng toàn thể |
600 mm |
Chiều cao toàn thể |
1.130 mm |
Chiều dài cơ sở |
1.440 mm |
Trọng lượng |
Trên 145 kg |
Động cơ |
Làm mát bằng nước |
4 kỳ | |
DOHC 4 van | |
V5, 75,5o | |
Dung tích 990 cc | |
Công suất 220 mã lực | |
Khung xe |
Tuýp đôi hợp kim |
Vành |
17 inch trước và 16,5 inch sau |
Lốp |
Michelin Pilot |
Hệ thống treo |
Trước: Showa Telescopic |
Sau: Unit Pro-Link & Showa Monoshock | |
Phanh |
Brembo |
Xích |
Regina |
Dung tích bình xăng |
2003: 24 lít |
2004: < 22 lít |
Thành Hưng (theo Honda World GP)