eVăn: Bài tiểu luận này được tác giả đọc tại Hội thảo lần thứ 19 của Liên đoàn quốc tế các ngôn ngữ và nền văn chương đương đại (International Federation for Modern Languages and Literatures, viết tắt FILLM) tại Đại học Brasilia, Brazil, năm 1993, và được in trong tạp chí Nghiên cứu Serbia, tập 7, số 1, mùa xuân 1993, tr. 33-38. Nhân dịp cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Từ điển Khazar của Milorad Pavic vừa được dịch và xuất bản tại Việt Nam, và để tìm hiểu những điểm đặc trưng về phong cách của nhà văn này, chúng tôi trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết tới bạn đọc. Mong rằng nó sẽ được sử dụng như một tư liệu tham khảo tốt cho các nhà nghiên cứu Việt Nam về Milorad Pavic cũng như chủ nghĩa hậu hiện đại nói chung.
Mihajlovic, Jasmina -
![]() |
Milorad Pavic (1929-) |
Sau đó ít lâu, các nhà lý luận và phê bình văn học khác (Radoman Kordic, Sava Damjanov, Aleksandar Jerkov) cũng đưa ra những định nghĩa tương tự trong các công trình nghiên cứu một số yếu tố phong cách và thi pháp hậu hiện đại trong văn xuôi của Pavic, trước hết là các tiểu thuyết Từ điển Khazar và Phong cảnh vẽ bằng trà.
Ở châu Âu, đặc biệt là khu vực nói tiếng Đức, những ý kiến đồng nhất Pavic với chủ nghĩa hậu hiện đại càng trở nên mạnh mẽ sau khi bản dịch Phong cảnh vẽ bằng trà được ấn hành, đến nỗi mới đây tờ Algemeine Zeitung của Áo đã gọi Pavic là "thủ lĩnh của chủ nghĩa hậu hiện đại châu Âu", còn tại Hội thảo chuyên đề Xlavơ tại Tübingen, giáo sư Rolf-Dieter Kluge thông báo rằng một hội nghị quốc tế mang tựa đề "Pavic và chủ nghĩa hậu hiện đại" sẽ sớm được tổ chức.
Trong bài tiểu luận Những nhà săn mộng, Tam ngữ luận và "Phong cảnh vẽ bằng trà": Thi pháp hậu hiện đại của Milorad Pavic trình bày tại Hội nghị các nhà Xlavơ học Đức ở Berlin năm 1990, Dagmar Burkhart, một nhà Xlavơ học đến từ Hamburg đã đi sâu nghiên cứu thi pháp hậu hiện đại của Pavic. Burkhart liệt kê bảy đặc trưng then chốt của văn chương hậu hiện đại, sau đó phân tích bảy đặc trưng này dựa trên các ví dụ rút ra từ Từ điển Khazar và Phong cảnh vẽ bằng trà. Trong tiểu luận này, tôi sẽ áp dụng bảy công thức cơ bản (chính xác hơn là bảy điểm nói trên của Burkhart) để thử nêu ra một số đặc trưng tiêu biểu của văn xuôi Pavic nói chung mà chúng ta có thể diễn dịch theo lối hậu hiện đại, từ đó cho phép nghiên cứu sâu hơn theo hướng này.
Đặc trưng đầu tiên của văn chương hậu hiện đại hẳn là sự khước từ việc chọn một quan điểm mang tính ý hệ. Nói chung, thái độ này của hầu hết các nhà hậu hiện đại biểu hiện ở chỗ họ chống lại thuyết ngôn từ trung tâm luận (logocentrism) và chủ nghĩa duy lý mà họ coi là cha đẻ của bạo lực tư tưởng; về thực chất, điều này hàm ý lật đổ bản thân toàn bộ tri thức nhân loại từ xưa đến nay. Trong tác phẩm của Pavic, ta có thể nhận thấy đặc trưng này trước hết ở thái độ khinh miệt và mỉa mai đối với sự thật lịch sử và kinh nghiệm lịch sử. Thái độ coi thường tính xác thực của sự kiện được thể hiện bằng các phương tiện hình thức trong Từ điển Khazar ở cấp độ cái cụ thể và cái khái quát, có thể quy về câu cách ngôn bổ sung cho lời nói đùa của Pavic "Sự thật chỉ là một trò chơi khăm" và cần được hiểu rằng: lịch sử chỉ là một câu chuyện tầm phào.
Mặt khác, việc sử dụng cái kỳ quái, mỉa mai, phúng dụ và nghịch lý để minh họa một thế giới cũng cho thấy thái độ của chính tác giả đối với thế giới đó. Vì thế cho nên, sự bóp méo thực tại (dù được phóng chiếu vào quá khứ, hiện tại hay tương lai) cũng hàm chứa một chiều kích phê phán mạnh mẽ như vậy, nhưng được biểu hiện một cách ngấm ngầm và tế vi hoặc một cách không điển hình. Chẳng hạn, trong Phong cảnh vẽ bằng trà, đặc trưng nổi bật nhất là thái độ khó xác định của người kể chuyện đối với những hành tung và "thành tựu" của Ananasije Razin, cũng như bước ngoặt đầy nghịch lý khi con quỷ mà sự tồn tại của nó đang bị con người đe dọa lại trở thành vị cứu tinh của loài người (một số nhà phê bình Italy nhận định, cuốn tiểu thuyết này là sự tái diễn dịch huyền thoại Faust theo kiểu hậu hiện đại).
Đặc trưng thứ hai và có lẽ tiêu biểu nhất của văn chương hậu hiện đại là tính liên văn bản và trích dẫn ở cấp độ thể loại và motive. Bằng cách sử dụng nhiều thể loại, nhiều kiểu tự sự và phong cách khác nhau, sử dụng trò chơi kết hợp, nhà văn tạo ra một cấu trúc lai ghép và văn bản đa thanh. Cũng như đặc trưng thứ nhất, điều này khơi dậy nỗi hoài nghi đối với những phương thức hiện có trong việc nhận biết thực tại và thế giới, bằng cách khẳng định rằng chúng ta chỉ có thể nhận biết thế giới thông qua các văn bản, mà trên thực tế là những mảnh rời, trích đoạn và dấu vết của các văn bản. Điều này tương đồng với liệu pháp phân tâm học, vốn thông qua việc liên tưởng tự do các chi tiết và những thành tố còn thiếu để giúp con người quay lại tính hay quên nguyên thủy và cái yếu tính mà mình đã đánh mất.
Cái mà hiện nay người ta xếp vào đặc trưng hậu hiện đại đã hiện diện trong sáng tác văn chương của Pavic ngay từ tập thơ đầu tay The Palimpsets của ông, bởi tính phân tầng về ý nghĩa và phong cách chính là đặc điểm trung tâm trong văn chương và thơ ca của Pavic.
Bằng cách dùng nhiều mô thức văn chương-ngôn ngữ khác nhau như huyền thoại, truyền thuyết, sự tích các thánh, kinh ngụy tác, truyện cổ, lịch sử, v.v., đồng thời sử dụng chúng thông qua các hình thức diễn dịch lại hay giễu nhại, Pavic làm phong phú cấu trúc văn chương ngoạn mục của mình bằng toàn bộ thành tựu của văn xuôi hiện đại. Bằng cách đó ông thiết lập được sự tiếp nối và hài hòa giữa những nền văn hóa khác nhau và đạt được sự dung hợp giữa cái cũ và cái mới.
Đặc trưng thứ ba của văn chương hậu hiện đại là sự thiếu vắng tính logic nhân quả của câu chuyện. Nhà văn đạt tới điều này bằng cách phá hủy tính hiện thực của tác phẩm và từ bỏ tính chất tuyến tính theo thời gian cũng như quan hệ nhân quả của câu chuyện.
Cơ chế nhằm đạt được điều này trong tác phẩm của Pavic đòi hỏi phải phân tích sâu hơn, nhưng hình như phương thức thực hiện việc này có thể quy về cách sử dụng một số mô thức kỳ dị (Sava Damjanov gọi đây là sự "hậu hiện đại hóa" cái kỳ dị), thông thường nhất là dựa trên hiệu quả giấc mơ. Đồng thời, trong trường hợp vắng mặt tính logic nhân quả của câu chuyện trong tiểu thuyết của Pavic, tôi cho rằng thực ra đó là một ảo tưởng được thực hiện một cách nhân tạo (an illusion artificially carried out). Bởi trong Từ điển Khazar nghĩa (meaning) được kiến tạo bởi chính người đọc tùy theo cách đọc mà người đó chọn, nên logic của câu chuyện trở thành logic của sự lựa chọn. Ngược lại, trong Phong cảnh vẽ bằng trà, cuốn tiểu thuyết mà nghĩa cũng tùy thuộc vào lựa chọn của người đọc nhưng ở mức độ thấp hơn so với Từ điển Khazar, thì theo tôi, đặc trưng này biểu hiện rõ hơn, mặc dù thoạt nhìn Phong cảnh vẽ bằng trà gần gũi hơn với kiểu tiểu thuyết cổ điển, với một kết cấu nghiêm ngặt hơn và câu chuyện mạch lạc hơn. Lý do làm ta có ấn tượng này là có một sự hỗn độn thấy rõ về thời gian, gắn liền với đặc trưng cốt lõi của văn chương hậu hiện đại: sự xóa mờ các quan hệ không/thời gian. Đặc trưng này ở mức độ nào đó đã hàm chứa sẵn trong đặc trưng thứ ba, bởi nó dựa trên sự phá bỏ tính hiện thực và không thừa nhận trình tự logic của các quan hệ không / thời gian.
Theo tôi, đặc trưng này dường như là cái đặc sắc nhất trong văn xuôi của Pavic. Bằng cách trộn lẫn và tích hợp những cấp độ thời gian khác nhau, nó tạo ra một thời gian dị biệt, thời gian của bản thân văn bản, dẫn tới ấn tượng về tính phi thời gian và tính hằng hữu trong thời gian (omnitemporality, hiện hữu tại bất cứ điểm nào trong thời gian); bằng cách nhân bội các đặc trưng của không gian, bản thân không gian bị loại trừ, nhờ đó đạt được một trạng thái nhất định của dòng chảy không gian và khoảnh khắc (a certain of fluid space and moment). Và điều này chính là cơ sở để công chúng tiếp nhận tác phẩm này của Pavic một cách đặc biệt đến như vậy, sự tiếp nhận mà dù có duy lý cách mấy tôi vẫn sẵn sàng gọi là sự tiếp nhận kỳ diệu.
Trong Từ điển Khazar, các tầng thời / không gian nổi rõ hơn vì ta có thể nhận diện và quan sát chúng theo lịch đại như là các cấp độ "Khazar", "baroque" và "hiện đại", trong khi ở Phong cảnh vẽ bằng trà mọi thứ được thực hiện một cách sâu sắc và tinh tế hơn, mặc dù hiệu quả vẫn là một. Tôi cũng cho rằng một công trình nghiên cứu về thi pháp thời gian trong Phong cảnh vẽ bằng trà sẽ là vô giá cho lý thuyết văn chương và lý thuyết tiếp nhận, mặc dù vật lý lý thuyết cũng có thể sử dụng một vài phần của cuốn tiểu thuyết này để xác nhận những quan điểm và giả thuyết của mình.
Đặc trưng thứ năm của văn chương hậu hiện đại là xu hướng mở thay vì cố kết trong tự sự; chúng ta có thể diễn giải điều này như là mong muốn khước từ việc đưa ra đoạn kết bằng cách "để mở" tác phẩm.
Hiệu quả của câu chuyện không có hồi kết, vốn hiện diện trong toàn bộ văn xuôi của Pavic, được xây dựng bằng cách sử dụng nhiều khả năng khác nhau về hình thức và nội dung, mặc dù các khả năng thấy rõ nhất có thể là: ở các truyện ngắn, là những bước ngoặt ngay ở đoạn kết, ở Từ điển Khazar, là bản thân hình thức của tiểu thuyết, ở Phong cảnh vẽ bằng trà, là ở sự dở dang của nó.
Một đặc trưng nữa của văn chương hậu hiện đại là nhân vật không hoạt động trên cấp độ tâm lý; điều này dẫn đến việc thiếu vắng sự phân tích tâm lý đối với nhân vật, nó loại trừ khả năng minh định nhân vật theo lối cổ điển. Tác giả xóa nhòa nhân vật bằng cách đưa ra cùng một lúc nhiều điểm nhìn và phối cảnh khác nhau đối với chủ thể mà cùng một lúc có thể vừa là tác giả, vừa là người kể chuyện vừa là chính nhân vật, do đường phân giới giữa ba chủ thể này đã bị xóa mờ một cách có chủ ý.
Trong tác phẩm của Pavic, đặc trưng rõ nhất là vấn đề diện mạo của các nhân vật và của chính tác giả. Tất cả nhân vật của Pavic đều tìm kiếm nhiều loại diện mạo khác nhau: diện mạo cá nhân, giới tính, thế hệ, quốc tịch, cộng đồng, vũ trụ... Đồng thời, nhiều sự song trùng, biến hóa và nhập nhằng là dấu hiệu cho thấy họ (các nhân vật đó) thuộc về một trật tự huyền thoại - cổ mẫu mang tính biểu tượng chứ không phải một trật tự cá nhân.
Đặc trưng thứ bảy của văn chương hậu hiện đại có lẽ là tính chất tự chủ đề (autothematization) 1, nói chính xác hơn là sự hiện hữu của diễn ngôn siêu văn chương (metaliterary discourse), điều thấy rõ nhất khi nó thuộc về địa hạt biểu đạt thơ ca.
Ngôn ngữ siêu thơ (metapoetic speech) hướng tới người đọc trong văn xuôi Pavic rõ ràng là sự áp dụng nguyên lý hậu hiện đại này. Mục đích của nó là thiết lập một kiểu truyền thông khác với người đọc, và qua đó là một mỹ học tiếp nhận khác. Sự hình thành một người đọc sáng tạo cho phép hiện thực hóa đầy đủ hơn tính đa bội của nghĩa vốn là đặc trưng của văn xuôi Pavic. Mặt khác, sự hiện hữu nhiều mảng văn bản tự thân thi ca ngầm ẩn (implicit autopoetic textual fragments) 2 làm cho hiện tượng này càng thêm phức tạp.
Trong bài phân tích sơ lược này về một số yếu tố có thể diễn giải theo quan điểm hậu hiện đại trong văn xuôi Pavic, mục đích của tôi là nhận diện, mô tả hoặc khái quát hóa một số vấn đề mà có thể cần phải phân tích sâu và toàn diện hơn.
Trong nhiều công trình nghiên cứu hậu hiện đại về văn chương, hầu hết trong số đó đều có thể áp dụng để phân tích tác phẩm của Pavic, dường như thuật ngữ rhizome ("căn hành" hay "thân rễ") của Deleuze-Guattari 3 là tương hợp nhất với cấu trúc và sự tán xạ nghĩa (radiation of meaning) trong các tiểu thuyết của Pavic.
Deleuze và Guattari viết: "Cuốn sách kỳ lạ là cuốn sách càng phân mảnh thì lại càng cố kết và chặt chẽ...". Những đặc điểm của rhizome mà họ đề cập tới có thể tìm thấy trong Từ điển Khazar. Cuốn tiểu thuyết này là một mô hình động của một chuỗi bất đối xứng gồm nhiều tuyến, nhiều chiều kích, với nhiều lối vào, nhưng lại không có một trục giữa hay một trung tâm; nó giống như một cơ thể sống để mở, liên tục lớn lên, liên tục phập phồng rung động, sự trương nở các lối vào ươm mầm cho sự nhân bội nghĩa; nó là một sự liên hệ thường hằng với chính mình, nhưng đồng thời cũng với những gì ở bên ngoài nó, hoặc, như Peter Vansittart nói: "Về căn bản, nó là một khối khổng lồ, một môi trường với những chiếc ăng-ten mọc ra mãi không ngừng, với thời gian và không gian động, với thực tại và những phỏng đoán năng động như trong các giấc mơ". Trong cuốn sách này, cái mạch ngầm bên dưới, cái bề mặt và cái ở trên bề mặt nằm trong một thể nhất quán thường trực và đồng hiện hữu của cái đa bội, đạt được thông qua sự phi tâm hóa và phi thứ bậc.
Ở Mặt trong của gió, thoạt nhìn thì không có cấu trúc rhizome. Tuy nhiên, chỉ khi ta đã đọc cả hai câu chuyện - chuyện Hero và chuyện Leander -, hoặc khi đã đọc được một truyện rưỡi, cái ảo tưởng về vận động và cấu trúc tuyến tính mới sụp đổ. Chỉ sau đó, trong ý thức của người đọc, giống như trong cái trống rỗng của chiếc lá xanh còn lại ở chính giữa sách, một cấu trúc mới và nghĩa mới mới được tạo ra. Chỉ khi đó mạng lưới mới khởi sự cái hoạt động ngầm của nó, nối kết tất cả các mầm nghĩa đã được gieo trong suốt cả hai câu chuyện.
Trong khi ở Từ điển Khazar nguyên lý rhizome diễn ra trong chính cấu trúc của cuốn sách và ở cấp độ bề mặt (mặc dù các hoạt động của mạch ngầm, hoạt động ý thức và hoạt động vô thức không phải vì vậy mà bị phương hại) thì ở Mặt trong của gió, rhizome được thực hiện bên ngoài cấu trúc của cuốn sách, và dường như sự "phân công lao động" giữa tác giả với độc giả càng chuyển dịch một cách triệt để hơn theo hướng nghiêng về độc giả trong cuốn tiểu thuyết này.
"Rhizome nối kết bất cứ điểm đã cho nào với một điểm đã cho khác... rhizome là một hệ phi hướng tâm, phi thứ bậc và phi mã hóa", Deleuze và Guattari viết. Trong Mặt trong của gió, sự phá vỡ cái trung tâm và sự trải rộng nghĩa trên các làn sóng được thực hiện trong cái đại dương xanh của cuộc gặp gỡ giữa các câu truyện mà càng về sau càng trở nên quan trọng hơn, vào thời điểm người đọc gấp sách lại.
Thụ Nhân dịch từ bản tiếng Anh
Nguồn: http://www.rastko.org.yu/knjizevnost/pavic/jmihajlovic-elements.html
-----------------
Chú thích của dịch giả:
1-2 Tạm dịch. Mong nhận được ý kiến đóng góp và chỉ giáo của bạn đọc.
3 Trong cuốn sách Một ngàn cao nguyên: Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân liệt (A Thousand Plateaus : Capitalism and Schizophrenia), Deleuze và Guattari mô tả những đặc tính của khái niệm rhizome mà họ đề xuất. Hai nguyên lý đầu tiên của rhizome là nguyên lý kết nối và nguyên lý đa hợp (tạm dịch từ "principle of connection" và "principle of heterogeneity"). Hai nguyên lý này đòi hỏi rằng bất cứ điểm nào trong một hệ thống rhizome đều có thể nối kết với một điểm bất kỳ khác. Nói cách khác, rhizome không phải là một cấu trúc phân theo thứ bậc. Nó là một cấu trúc phản thứ bậc: không một điểm nào được phép đứng trước điểm khác, không một điểm cụ thể nào bị buộc phải kết nối với một điểm khác, mà tất cả các điểm đều được nối kết và cần phải được nối kết.
Nguyên lý thứ ba là nguyên lý đa bội (principle of multiplicity). Cách tốt nhất để hiểu nguyên lý này là xét hành vi của con rối và nghệ sĩ rối. Sau khi tiến hành giải kiến tạo (deconstruction), ta có thể thấy rằng chủ thể điều khiển hành vi của con rối không phải là ý chí của nghệ sĩ rối, mà là một "đa bội những dây thần kinh".
Bản thân nghệ sĩ rối là một con rối của cái đa bội này. Khi xét theo quan điểm rhizome thì cái quan trọng không phải là điểm tiếp xúc giữa những sợi dây và con rối hay điểm tiếp xúc giữa bàn tay nghệ sĩ với cái khung gỗ buộc mấy sợi dây rối, mà là những tuyến nối kết (hay quan hệ) giữa các điểm.
Nguyên lý thứ tư của rhizome được gọi là nguyên lý đứt đoạn phi nghĩa (tạm dịch từ "principle of asignifying rupture"). Theo nguyên lý này, rhizome có thể "bị phá vỡ tại một điểm nào đó, nhưng sẽ lại bắt đầu trên một trong các tuyến cũ của nó hoặc trên những tuyến mới".
Nguyên lý thứ năm và thứ sáu của rhizome là nguyên lý địa đồ (tạm dịch từ "principle of cartography") và nguyên lý vẽ đề-can (tạm dịch từ "principle of decalcomania"). Các nguyên lý này khẳng định rằng rhizome không phải là một cơ chế đồ hình, mà là một tấm bản đồ với nhiều điểm vào. Chẳng hạn, phân tâm học là một cơ chế đồ hình nhằm "vẽ lại" tiềm thức, cái đã tồn tại từ trước khi có bản vẽ. Đồ hình ở đây có nghĩa là không phải tạo mới, mà là tái hiện lại, đồ lại những nét đã có. Vẽ bản đồ thì ngược lại, nó "kiến tạo cái tiềm thức" bằng cách "hướng đến một thể nghiệm tiếp xúc với thực tại". Có nghĩa là, bản đồ có thể tồn tại tự thân nó mà không cần phải có bất cứ một cái gì khác hiện hữu bên ngoài tấm bản đồ, trong khi bản vẽ đồ hình chỉ có thể tồn tại như là sự tái hiện một cái gì khác bên ngoài nó.
Để tóm tắt các đặc trưng then chốt của rhizome đã nói ở trên, Deleuze và Guattari nói: "Rhizome là một hệ thống phi tâm, phi thứ bậc, phi hàm nghĩa, không có chủ thể điều khiển tối cao (nguyên văn: không có vị Tướng viết hoa, ND) và không có một bộ nhớ tổ chức hay cơ chế tự động hóa trung tâm, mà chỉ được xác định bằng sự luân chuyển các trạng huống". (The rhizome is an accentered, nonhierarchical, nonsignifying system without a General and without an organizing memory or central automation, defined solely by a circulation of states).