Việc CPI (chỉ số giá tiêu dùng) trong tháng 7 năm 2012 xuống mức thấp nhất kể từ năm 2009 cùng với việc nền kinh tế tăng trưởng trì trệ đã gây nên nhiều quan ngại về nguy cơ giảm phát.
1. Những hiện tượng bất bình thường:
Từ quí 4 năm 2008 đến quí 1 năm 2012, doanh nghiệp Việt Nam phải vay vốn ngân hàng với lãi suất bình quân gần 20% năm. Chi phí tài chính như thế liệu có cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thế giới (ví dụ như Trung Quốc, lãi suất cao nhất là 6.58%) hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (khoảng 4-5%) hay không? Nói một cách khác, lãi suất tiền vay của ngân hàng đã bóp chết sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ngân hàng lãi lớn, doanh nghiệp thua lỗ: Năm 2011 một ngân hàng công bố lợi nhuận tăng hơn 80% với 8.100 tỷ đồng trong khi các doanh nghiệp đang chết mòn. Nếu trong vai trò quản lý cấp cao của nền kinh tế, tôi chỉ mong ngân hàng lãi 2.000 tỷ, bù lại 6.100 doanh nghiệp khác đang hoạt động cũng có lãi.
Năm 2011 có thời điểm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trên 30%, tại sao? Năm 2012 có tình trạng các ngân hàng thương mại thừa vốn, trong khi doanh nghiệp khát vốn, tại sao vậy? Điều này chắc chỉ có ngân hàng nhà nước biết rõ nhất.
2. Một số nguyên tắc trong điều hành chính sách tiền tệ:
Chính sách tài khoá là chính sách dài hạn, chính sách tiền tệ chỉ mang tính chất ngắn hạn. Vì vậy, chính sách tiền tệ phải linh hoạt trong khi chính sách tài khoá phải kiên định mục tiêu. Trong thời gian qua, chúng ta đã duy trì chính sách tiền tệ một cách xơ cứng. Cụ thể hơn, chúng ta đã áp dụng một cách máy móc chính sách "lãi suất dương" vào chính sách tiền tệ.
Nói về mặt triết học, nếu có "lãi suất dương" thì phải có "lãi suất âm". Vấn đề là khi nào cần bắt buộc áp dụng chính sách "lãi suất âm"?
Theo tôi, trong giai đoạn bùng phát lạm phát cao phải áp dụng chính sách "Lãi suất âm", vì nếu áp dụng chính sách "Lãi suất dương" thì khác nào "đổ thêm dầu vào lửa". Tại Trung Quốc, khi CPI lên đến 5.5%, lãi suất huy động tiết kiệm chỉ có 3.05%).
Thực tế hiện nay, vai trò điều chỉnh "cầu tín dụng" của lãi suất ngân hàng trong giai đoạn lạm phát là rất thấp đối với nền kinh tế nước ta. Việc đó dẫn đến tình trạng "lãi suất cao tôi cũng vay, nếu vay được. Vì vay để tôi còn tồn tại, nếu không tôi phá sản!". Chính vì thế, cần phải sử dụng công cụ lãi suất cho vay của ngân hàng một cách hợp lý hơn.
Hiện dư nợ không tăng là do các doanh nghiệp đã dưới chuẩn và ngân hàng không dám cho vay. Mặc dù trên thực tế, các ngân hàng rất muốn cho doanh nghiệp vay vốn để giảm nợ xấu.
Phải coi nền kinh tế là một cơ thể sống, trong đó các ngành kinh tế có quan hệ một cách hữu cơ với nhau. Giai đoạn vừa qua chúng ta đã áp dụng một phương thức cứng nhắc và cực đoan để điều hành như không cho vay chứng khoán, bất động sản, lĩnh vực phi sản suất, tiêu dùng, v.v...
Xuất phát điểm của nền kinh tế chúng ta thấp, tích luỹ nội tại của nền kinh tế và của doanh nghiệp yếu, nên dựa vào vốn ngân hàng là chủ yếu, điều đó không có gì lạ. Vấn đề quan trọng là doanh nghiệp sử dụng đồng vốn ấy có hiệu quả không? Chứ không phải là cái gì để đảm bảo cho khoản vay ấy. Nhiều khi lỗ xảy ra chúng ta lại quay sang hỏi "sao vay nhiều thế?"
Nền kinh tế không có ngày 31/12 mà chỉ có chu kỳ kinh tế. Thực tế trong điều hành, chúng ta hết sức máy móc. Ví dụ đến tháng 7/2009, dư nợ tín dụng tăng 29%, chúng ta lại quy định đến 31/12 chỉ được tăng 20%. Do vậy nên từ tháng 8, chúng ta chỉ tìm mọi cách giảm dư nợ đi 9%.
Để có thể tạo ra một sự ổn định cân bằng, tránh gây sốc thì khi dư nợ cho vay đối với lĩnh vực nào mất cân đối, trong chu kỳ kinh tế tiếp theo, chúng ta sẽ đưa chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ đối với lĩnh vực đó thấp dần xuống. Cứ tạm coi một chu kỳ kinh tế là 12 tháng thì lẽ ra chúng ta phải điều hành là từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010, giảm tăng trưởng tín dụng xuống còn 20%.
Thiết nghĩ, hiện tại CPI 7 tháng đầu năm 2012 là 2.22%. Trong đó tháng 6 là - 1.64%, tháng 7 -2.71%. Các số liệu trên cho thấy, nền kinh tế có dấu hiệu suy giảm, lâm vào tình trạng khủng hoảng. Để cứu nguy, cần có chính sách đột phá.
1. Đề nghị đưa lãi suất huy động tối đa là 4%, cho vay tối đa không quá 7%.
2. Các doanh nghiệp đang tồn tại được phép tăng trưởng tín dụng 15% so với dư nợ vay ngân hàng hiện tại, nếu có phương án sử dụng vốn, sử dụng lao động hiệu quả.
3. Cần thiết phải khoanh nợ, giãn nợ cho các doanh nghiệp từ 2-5 năm.
Thanh