Theo Tiến sĩ Võ Trí Thành - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trưởng nhóm nghiên cứu - các chỉ tiêu giám sát lâu nay vẫn được nhắc đến tại Việt Nam như là cơ sở để xem xét mức độ an toàn tài chính của quốc gia hay doanh nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn những chỉ tiêu này thường được chiếu từ các thông lệ quốc tế, chưa vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng như chưa trở thành một hệ thống giám sát toàn diện.
Các tập đoàn tài chính đa năng phát triển quá nhanh khiến các chuyên gia lo ngại. Ảnh: Hoàng Hà |
“Tại Quốc hội, nhiều đại biểu nhắc đến ngưỡng nợ công, dự trữ ngoại hối theo tuần nhập khẩu, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng… Nhưng phần lớn những con số này đều theo quốc tế, không ai biết với Việt Nam, như vậy là đủ chưa?”, Tiến sĩ Thành đặt câu hỏi.
Một vấn đề khác, tuy không mới trên thế giới nhưng nổi lên tại Việt Nam trong thời gian qua là việc giám sát các tập đoàn tài chính. Theo nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế, so với các tổ chức thông thường, tập đoàn tài chính có cơ cấu tổ chức - hoạt động phức tạp hơn. Nguyên nhân chủ yếu do hiện tượng sở hữu chéo dẫn đến thiếu rõ ràng giữa người trực tiếp sản xuất kinh doanh với người giám sát.
Điều này càng trở nên nguy hiểm khi hoạt động đầu tư ngày các tập đoàn tài chính ngày một đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau để né tránh quản lý. “Một ngân hàng thương mại chỉ đầu tư vào một nhà băng khác với tỷ lệ 3% (ngưỡng tối đa cho phép là 5%), nhưng công ty chứng khoán của ngân hàng đó lại đầu tư thêm 5% nữa. Như vậy có an toàn hay không?”, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đặt câu hỏi.
Trước những bất cập trên, nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Võ Trí Thành đề xuất Ủy ban Kinh tế dựa trên các tiêu chuẩn của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) để xây dựng các chỉ tiêu riêng cho Việt Nam. Theo đó, các chuyên gia của CIEM đề xuất 9 nhóm chỉ tiêu chính, được chia thành 5 nhóm vĩ mô và 4 nhóm vi mô (ở cấp độ doanh nghiệp). Riêng với giám sát các tập đoàn tài chính, nghiên cứu đề xuất cơ quan quản lý chủ yếu giám sát theo 3 hướng: giới hạn tín dụng ở cấp độ tập đoàn, vấn đề đánh tráo quản lý và an toàn vốn.
Chỉ tiêu an toàn vĩ mô |
Chỉ tiêu an toàn vi mô |
1. Tăng trưởng kinh tế | 1. An toàn vốn tối thiểu (cấp 1,2) |
- Tăng trưởng toàn nền kinh tế | 2. Chất lượng tài sản ngân hàng |
- Tăng trưởng ngành | - Mức độ tập trung cho vay theo lĩnh vực |
2. Cán cân thanh toán | - Cho vay theo loại hình đồng tiền |
- Thâm hụt cán cân vãng lai | - Cho vay theo kỳ hạn |
- Dự trữ ngoại hối | - Nợ xấu và dự phòng |
- Nợ nước ngoài / GDP | 3. Chỉ tiêu về lợi nhuận |
- Nợ công | - Lợi nhuận / Tài sản (ROA) |
3. Lạm phát (CPI) | - Lợi nhuận / Vốn tự có (ROE) |
4. Tỷ giá | - Cơ cấu lợi nhuận |
5. Cho vay & giá BĐS | 4. Thanh khoản |
- Cho vay nền kinh tế | - Tín dụng NHTW cho các TCTD |
- Cho vay bất động sản | - Tiền gửi / Tổng cung tiền tệ |
- Giá bất động sản | - Cho vay / Tiền gửi |
- Cho vay DNNN thua lỗ | - Cơ cấu, Hệ số tài sản nợ / Ts có thanh khoản |
Hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính theo đề xuất của CIEM
Theo các chuyên gia của CIEM, hầu hết các chỉ tiêu nói trên đều có ngưỡng tham chiếu, so sánh theo chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, các số liệu này cần được tính toán lại cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam cũng như trong giai đoạn hiện nay. Các chuyên gia cũng cho rằng những ngưỡng này chỉ có giá trị tham khảo, không phải là cơ sở chính xác để xác định một quốc gia, doanh nghiệp có lành mạnh về tài chính hay không.
Bên cạnh đó, dự án cũng đề xuất cơ quan chức năng sớm triển khai các mô hình thử nghiệm rủi ro về tỷ giá, lãi suất, tín dụng… (Stress-Test) đối với các tổ chức tài chính, đặc biệt là ngân hàng. Theo các chuyên gia, hoạt động giám sát tại Việt Nam hiện mới chỉ thiên về giám sát tuân thủ, những mô hình mang tính định lượng nói trên chưa nhiều nhưng lại hết sức cần thiết trong giai đoạn thị trường tài chính phát triển phức tạp như hiện nay.
Cùng với nghiên cứu về Các chỉ tiêu giám sát tài chính, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cũng vừa công bố 2 báo cáo khác về tác động của tỷ giá với xuất khẩu giai đoạn 2000-2011 và bài toán lạm phát mục tiêu tại Việt Nam. Kết quả cho thấy tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu của Việt Nam và phụ thuộc chủ yếu vào 2 yếu tố là sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Điều này cho phép cơ quan chức năng có thể tiếp tục sử dụng công cụ tỷ giá để kích thích xuất khẩu. Tuy nhiên cần lưu ý các yếu tố ổn định vĩ mô như lạm phát, khả năng trả nợ, tình hình tài chính doanh nghiệp… khi sử dụng công cụ này. Về việc Việt Nam có thể chuyển sang điều hành kinh tế theo lạm phát mục tiêu (thay vì mục tiêu kép: tăng trưởng - lạm phát hiện nay) trong những năm tới, nhóm nghiên cứu của Ủy ban cho rằng đây là một mô hình đã chứng tỏ được thành công tại nhiều nước. Tuy nhiên, khi chuyển sang mô hình này, đòi hỏi vai trò (đặc biệt là tính độc lập tương đối) của Ngân hàng Nhà nước và nền tảng vĩ mô tương đối ổn định. Trong điều kiện hiện nay, có thể cân nhắc chuyển dần sang mô hình này thay vì cơ chế chuyển ngay như một số nước. |
Nhật Minh