Theo ông Thúy, lạm phát thời gian qua không xuất phát chủ yếu từ nguyên nhân tiền tệ. |
6 tháng đầu năm tình hình kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp. Kinh tế Mỹ tăng trưởng cao nhưng thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn gây áp lực đối với kinh tế thế giới, trong khi đó, khu vực EU tăng trưởng chậm do tác động của giá dầu và nguyên liệu cơ bản tăng cao. Giá dầu thô và hàng hóa dịch vụ tăng cao làm lạm phát gia tăng tại nhiều nước. Ở trong nước cũng xuất hiện một loạt các yếu tố làm tăng chỉ số giá tiêu dùng như nhu cầu mua sắm tăng trong dịp Tết nguyên đán, Chính phủ điều chỉnh giá điện, xăng dầu, tăng lương và dịch cúm gia cầm xuất hiện trở lại trên diện rộng, hạn hán nặng nề diễn ra ở nhiều địa phương.
Theo nhận định của SBV, những tháng cuối năm, kinh tế thế giới có những dấu hiệu suy giảm, giá dầu thô tiếp tục diễn biến bất thường đe dọa tới lạm phát và đẩy mặt bằng lãi suất quốc tế lên cao. Trong khi đó tại Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa như mong đợi nửa đầu năm đang là gánh nặng cho những tháng còn lại. Kiểm soát lạm phát đối mặt với nhiều nhân tố tác động tăng giá như một số mặt hàng trên thị trường quốc tế vẫn đứng ở mức cao và biến động khó lường nhất là dầu thô, hạn hán làm giảm nguồn cung lương thực trong nước, trong khi nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu tăng cao...
Trao đổi với báo chí chiều 17/6, Thống đốc Lê Đức Thúy một lần nữa nhấn mạnh, lạm phát gia tăng trong năm 2004 và nửa đầu năm nay không chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ. "Các tính toán về kinh tế lượng cho thấy, tác động của cú sốc bên cung đã làm tăng giá đầu vào và góp tới 5 điểm phần trăm vào tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng - CPI; còn tác động của tiền tệ chỉ chưa đầy 1%. Nói như vậy không phải để bảo vệ cho ngân hàng, nhưng lạm phát có nhiều nguyên nhân, cần bắt đúng bệnh mới trị bệnh tốt".
Theo phân tích của ông Thúy, CPI tháng 6 sẽ tăng thấp hơn dự đoán của các bộ ngành và nếu giữ tốc độ tăng quý III tương đương mức tăng trung bình tháng năm ngoái (khoảng trên 0,2%), toàn bộ quý IV tăng 1% thì hoàn toàn có thể đạt được chỉ tiêu lạm phát dưới 6,5% mà Quốc hội đề ra, với điều kiện thực hiện quyết liệt các biện pháp ổn định thị trường, giá cả.
Dẫu nói tiền tệ không phải là nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát thời gian qua, song Thống đốc Lê Đức Thúy cho biết ngân hàng sẽ góp phần trách nhiệm trong việc kiềm chế tốc độ tăng giá tiêu dùng. Chính sách tiền tệ thời gian tới sẽ được điều hành theo hướng linh hoạt, thận trọng, coi trọng ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát nhưng ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch đề ra. Trong đó, điều hành thận trọng mức cung ứng tiền theo chỉ tiêu được phê duyệt từ đầu năm... Chính sách tỷ giá cũng sẽ theo hướng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nhập siêu. Các mức lãi suất chủ đạo như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu... sẽ điều chỉnh theo hướng ổn định mặt bằng lãi suất thị trường trong nước nhằm hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tránh gây xáo trộn đối với hoạt động tín dụng và ngoại hối.
Về lý thuyết, tăng trưởng tín dụng cũng là một nhân tố tác động tới lạm phát, thậm chí còn tác động mạnh hơn cả việc tăng cung tiền. Mặt khác, hạn chế tín dụng sẽ ảnh hưởng tới yêu cầu đáp ứng vốn cho nền kinh tế và gián tiếp "gây khó" cho tăng trưởng GDP. Cuộc họp của hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia hồi tháng 3 đã đi đến quyết định giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25%, một ngưỡng vừa có thể đáp ứng vốn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo cao chất lượng, hiệu quả tín dụng và góp phần kiểm soát lạm phát.
Tuy nhiên, thực tế 5 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng mới đạt trên 10% và đòi hỏi phải có những biện pháp mạnh tay hơn nữa để có thể đạt chỉ tiêu đề ra. Đi đối với việc khuyến khích tăng trưởng tín dụng, Ngân hàng Nhà nước sẽ yêu cầu cao hơn đối với việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng.
"Thời gian tới, chúng tôi chưa thấy cần thiết tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, chỉ quan tâm tới chất lượng và mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25%", ông Thúy tuyên bố.
Những nhận định hết sức thận trọng của người đứng đầu ngân hàng trung ương phát đi tín hiệu mặt bằng lãi suất trên thị trường tiền tệ sẽ tiếp tục nhích lên, do tác động của xu hướng tăng lãi suất USD trên thị trường quốc tế và xu hướng cạnh tranh trong huy động vốn ngày càng gia tăng giữa các ngân hàng thương mại trong nước.
6 tháng đầu năm, SBV đã tăng nhẹ một số loại lãi suất chủ đạo. Mặt bằng lãi suất huy động cũng như cho vay VND tại các tổ chức tín dụng bắt đầu biến động kể từ đầu quý II, trong đó huy động tăng khoảng 0,12-0,6%/năm, cho vay 0,3-1,8%/năm tùy từng kỳ hạn. Biến động lãi suất ngoại tệ diễn ra ngay từ đầu năm với mức tăng 0,2-0,9%/năm, do nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp tăng và một phần do ảnh hưởng của việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất đồng đôla. Trong bối cảnh đó, SBV kiên quyết giữ ổn định tỷ giá VND/USD, chỉ tăng 0,55% so với tháng 12/2004 và tương đương mức tăng cùng kỳ năm ngoái.
Song Linh