Theo kết quả của Tổng cục Thống kê, 11 tháng đầu năm nay, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 18,62% so với cùng kỳ năm 2010 và có khả năng tiếp tục nhích lên do Tết Nguyên Đán đang cận kề. Giá cả của nhiều mặt hàng "đến hẹn lại… phi mã" đã trở thành nỗi lo thường trực của nhiều người dân mỗi dịp Tết đến, Xuân về. Tuy nhiên, trong rổ hàng hóa để tính chỉ số giá tiêu dùng, bưu chính viễn thông là nhóm hàng duy nhất nhiều năm liền giữ xu hướng giảm giá. Thậm chí có những thời điểm giảm giá rất mạnh, trở thành yếu tố "kìm cương" chỉ số giá tiêu dùng.
Trước những năm 2000, dịch vụ viễn thông ở Việt Nam được hiểu là một dịch vụ cao cấp, dành cho người giàu và ở thành phố. Khi đó, người tiêu dùng Việt Nam vẫn xa lạ với việc gọi điện thoại, bởi phải bỏ ra số tiền là 850.000 đồng (gồm phí lắp đặt và tiền mua máy điện thoại cố định - tương đương hai chỉ vàng lúc bấy giờ) mới lắp được một đường dây điện thoại. Giai đoạn này cả nước có chưa một triệu thuê bao (gồm cả cố định và di động). Mấy chục triệu người dân Việt Nam cũng không có sự lựa chọn nào khác vì thị trường viễn thông Việt Nam chỉ có một nhà cung cấp là VNPT.
Ít ai có thể nghĩ được 10 năm sau, từ xuất phát điểm đó, thị trường viễn thông Việt Nam đã thực sự đổi khác. Người tiêu dùng Việt Nam không chỉ được tự do lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ cho mình, mà giá cước các dịch vụ đều giảm đi gấp nhiều lần nhờ yếu tố cạnh tranh của thị trường.
Cú sốc giá cước viễn thông lần đầu tiên được đưa ra vào tháng 10/2000, khi Viettel bắt đầu kinh doanh dịch vụ 178 với giá cước chỉ bằng 55-60% giá cước điện thoại truyền thống. Động thái này của Viettel bắt buộc các doanh nghiệp khác phải lao vào cuộc đua hạ giá thành để giữ chân "thượng đế".
Sau nhiều chặng "so găng", đến nay, điện thoại đường dài, di động quốc tế đã giảm 5 lần (từ 2 USD một phút còn 0,4 USD một phút vào năm 2007; 0,25 USD một phút vào năm 2008 và nay là 0,17 USD một phút. Mặt khác, điện thoại đường dài, di động trong nước cũng giảm từ 4-5 lần so với năm 2000. Lộ trình giảm cước của các dịch vụ viễn thông không chỉ khiến mấy chục triệu người dân Việt Nam được hưởng lợi, mà còn làm nên một kỳ tích trong thời bão giá: là lĩnh vực duy nhất lội ngược dòng lạm phát.
Giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ nhất của viễn thông Việt Nam có thể tính từ thời điểm năm 2000 trở lại đây. Chỉ cần một phép so sánh đơn giản, nếu như đến năm 2000, cả nước mới có khoảng 3 triệu thuê bao điện thoại (đạt mật độ 3,5 máy trong 100 dân) và trên các bảng xếp hạng các chỉ số phát triển công nghệ thông tin và viễn thông thế giới, Việt Nam luôn đứng ở top cuối. Nhưng ngày nay, bức tranh về viễn thông Việt Nam đã hoàn toàn đổi khác.
Đến nay, cả nước đã có 132 triệu thuê bao điện thoại (đạt mật độ khoảng 150 máy trong 100 dân). Từ một đất nước lạc hậu về công nghệ, giờ đây Việt Nam đã là trở thành một điểm sáng trên bản đồ viễn thông quốc tế với tốc độ phát triển nhanh thứ hai thế giới.
Theo báo cáo mới nhất về chỉ số phát triển CNTT-TT (ICT Development Index - IDI) được Liên minh viễn thông thế giới (ITU) công bố năm 2010 xếp hạng 159 quốc gia, vùng lãnh thổ theo mức độ phát triển của ICT, Việt Nam đã được xếp vị trí 86, cao hơn nhiều nước ở trong khu vực. Năm 2008, lần đầu tiên một doanh nghiệp viễn thông của Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng 100 thương hiệu di động lớn nhất thế giới, đó là Viettel.
Về giá trị thương hiệu, Viettel xếp thứ 83 nhưng về doanh thu, thứ hạng của Viettel đứng ở vị trí 94. Chính vì vậy, trong danh sách "top 10 mạng di động có thương hiệu vượt trên cả trọng lượng", Viettel đứng hạng 7… Về doanh thu, năm 2010 toàn ngành viễn thông đạt khoảng 200.000 tỷ đồng, dự kiến năm nay doanh thu viễn thông vẫn tiếp tục tăng trưởng.
Theo các chuyên gia kinh tế, nếu viễn thông tăng trưởng 10% sẽ góp phần tăng GDP tăng trưởng 1%. Viễn thông đóng vai trò như những mạch máu giao thông của một quốc gia, giúp thông tin trong xã hội có thể được lưu thông, giúp mọi người kết nối được với nhau.
(Nguồn: Viettel)