Và vào năm tiếp theo, ngài Tổng chưởng lý bang New York, Elliot Spitzer, đã tuyên bố rằng các mưu đồ đó là “sự phản bội quá đáng đối với lòng tin (của các nhà đầu tư) và là sự lạm dụng hết sức tồi tệ đối với hệ thống, đã cố tình làm sai quy tắc nhằm tăng lợi tức cho công ty”.
Không hẳn lúc nào phố Wall cũng như vậy. Vào các thập kỷ trước đó, ít nhất sẽ có một vài chuyên gia phân tích của các hãng lớn sẽ xem xét để tìm ra các điểm dối trá và chỉ ra các yếu kém của công ty. Tuy nhiên, tại các hãng ở phố Wall vào những năm 1990, thì lại thật sự thiếu vắng những tiếng nói phản biện, rồi lại có những trường hợp ca ngợi công ty một cách không nhất quán chưa từng xảy ra trước đó và hơn nữa là sự thổi phồng trong những lập luận nhằm bán được chứng khoán.
Điều gì ẩn giấu đằng sau sự thay đổi này? Những thứ thúc đẩy các CEO chỉ nói đúng một nửa sự thật hoặc nói dối hoàn toàn về doanh số và lợi nhuận của công ty họ đó là tiền bạc và danh lợi.
Trước kia, các hãng tại phố Wall có được phần lớn thu nhập của họ nhờ vào các khoản phí môi giới thực hiện mua và bán chứng khoán thay mặt cho nhà đầu tư. Giờ đây, phần lớn số tiền họ kiếm được lại là từ phí ngân hàng đầu tư thực hiện quảng bá và giới thiệu về các cổ phiếu thay mặt cho các khách hàng tổ chức. Nói một cách đơn giản, các hãng lớn tại phố Wall trước kia từng làm việc hầu như chỉ để phục vụ các nhà đầu tư tìm cách mua cổ phiếu của các công ty. Còn bây giờ đa phần bọn họ lại quay sang phục vụ các công ty tìm cách bán các cổ phiếu cho các nhà đầu tư.
Một sự thay đổi tương tự cũng diễn ra rộng khắp đối với các chuyên gia phân tích làm việc trong các hãng ở phố Wall. Trong những năm trước đó, hầu hết số tiền thù lao họ nhận được là từ khoản lương cố định. Còn bây giờ, đa phần số thù lao này lại có được từ các khoản thưởng có liên quan trực tiếp tới khả năng của họ trong việc nhẫn nhịn quảng bá cho các cổ phiếu.
Thực tế, thông điệp từ các hãng ở phố Wall tới các nhà phân tích lúc này là: “Bạn càng giúp chúng tôi bán được nhiều cổ phiếu, thì bạn càng kiếm được nhiều tiền”. Còn đối với các nhà phân tích không nghe theo thông điệp đó, thì lại có một thông điệp mạnh mẽ hơn tiếp theo sau, đó là: “Hãy lập ra các bản báo cáo làm tổn hại tới doanh số bán hàng và bạn sẽ được ghi vào lịch sử”.
Một ví dụ điển hình: Vào năm 2001, ngay trước khi xảy ra vụ sụp đổ Enron, một nhà phân tích của UBS Paine Webber tên là Chung Wu, đã gửi một bức thư điện tử tới các nhân viên của Enron để cảnh báo họ rằng việc nắm giữ cổ phiếu của công ty này – khi đó đang ở mức giá là 37 đôla cho mỗi cổ phiếu - là không khác gì việc “đánh cược với số phận”. Bức thư này làm các nhà điều hành của Enron giận điên lên và họ đã trách móc PaineWebber dữ dội. Chung Wu bị sa thải, còn PaineWebber vội vàng đưa ra một khuyến nghị mới với nội dung nên mua, còn “vấn đề nhỏ” kia lại lắng xuống. Ba tháng sau, cổ phiếu của Enron được bán ra với giá chỉ còn thấp hơn 25 xu cho mỗi cổ phiếu.
Không một hãng lớn nào ở phố Wall lại hạn chế số tiền thù lao dành cho các nhà phân tích của hãng mình dựa trên kết quả thật sự trong việc lựa chọn các cổ phiếu của họ. Ngược lại là đằng khác. Các nhà phân tích có thể sai lầm một lần, hai lần, 1.000 lần, nhưng họ vẫn nhận được các khoản tiền thưởng kếch xù, miễn là họ tiếp tục đưa ra khuyến nghị tốt về các cổ phiếu và với điều kiện vẫn còn “những kẻ khờ khạo” tiếp tục lao vào mua những cổ phiếu đã bị thổi phồng lên này. Đó là điều mà các bộ phận ngân hàng đầu tư mong muốn và là cách thức thực hiện của họ.
Thế nếu thực tế cho thấy tình hình tài chính của một công ty nào đó đang rõ ràng xuống dốc thì sao? Nếu có nhà phân tích nào đó không ưa gì công ty đó thì sao? Những điều đó có tạo ra sự khác biệt nào không? Không.
Để kiểm chứng, bất kỳ ai cũng có thể vào xem trang web của Tổng chưởng lý bang New York và xem phần cáo buộc của Elliot Spitzer đối với Merrill Lynch. Bạn sẽ thấy những gì các nhà phân tích của Merrill đã nói sau lưng các nhà đầu tư về các cổ phiếu mà họ đã từng quảng cáo rùm beng ra công chúng.
Loại cổ phiếu từng một thời lừng lẫy của công ty mạng Infospace đã được Merrill chính thức đưa ra lời khuyên “nên mua”. Tuy nhiên, trong các bức thư điện tử nội bộ của Merrill mà ngài Spitzer phát hiện ra, lại thể hiện là các nhân vật bên trong Merrill đã có ý kiến hoàn toàn khác với lời khuyên trên. Họ viết trong đó rằng Infospace là một “thứ rác rưởi”. Kết quả là: Những nhà đầu tư tin vào lời phân tích của Merrill đã bị thất bại thảm hại. Họ bị mất tới 93,5% số tiền tiết kiệm, các khoản đầu tư và số tiền hưu trí của mình khi Infospace sụp đổ.
Lời khuyên mà Merrill đưa ra đối với một loại cổ phiếu nóng khác, Excite@Home là “nên tích luỹ!” Vậy mà, trong các bức thư điện tử nội bộ gửi cho nhau, các nhà phân tích Merrill đã viết rằng Excite@Home chỉ như là một thứ bỏ đi. Kết cục: Những nhà đầu tư đã tin tưởng vào Merrill bị mất tới 99,9% số tiền của họ khi Excite@Home phá sản.
Khuyến nghị của Merrill Lynch đối với cổ phiếu của 24/7 Media cũng vậy, “nên tích luỹ”. Còn các nhận xét nội bộ của Merrill mà Spitzer phát hiện ra được là “24/7 Media cũng chỉ là một thứ rác rưởi”. Kết quả: Các nhà đầu tư tin vào khuyến nghị của Merrill đã mất 97,6% số tiền của họ khi 24/7 Media sụp đổ.
Tại sao họ lại làm như vậy? Bởi vì Merrill Lynch kiếm được hàng trăm triệu đôla từ các công ty mà họ thuyết phục các nhà đầu tư nên mua. Bởi vì các chuyên gia phân tích của hãng này được thưởng tới hàng triệu đôla khi họ giúp các công ty đó bán được cổ phiếu trong khi họ biết rằng các cổ phiếu này không đáng giá một xu. Và có thể bởi vì một điều nữa không kém phần quan trọng, đó là những người công khai bất đồng với ý kiến của công ty chắc chắn sẽ phải lãnh chịu những hậu quả khôn lường.
Mối quan hệ giữa Merrill Lynch với Enron là một ví dụ điển hình. Vào tháng 4 năm 1998, hai nhà điều hành của Merrill đã gửi cấp tốc một thông báo tới ngài chủ tịch của hãng, trong đó họ than phiền về một nhà phân tích của Merrill đã không có tinh thần hợp tác. Họ cho biết nhà phân tích này đã mắc một lỗi nghiêm trọng khi đưa ra đánh giá có vẻ “nhạt nhẽo” về Enron và điều này làm cho phía Enron trở nên không có thiện cảm với nhà phân tích này nữa.
Họ kết luận rằng điều này đã dẫn tới hậu quả là Merrill Lynch đã để xổng mất một thương vụ ngân hàng đầu tư có lợi với Enron. Không ngạc nhiên gì, ngay mùa hè năm đó, Merrill đã cho thay nhà phân tích thiếu tinh thần hợp tác đó bằng một nhà phân tích khác. Tay này đã mau mắn nâng hạng đánh giá Enron lên thành loại cổ phiếu nên mua. Và kết quả là ngay đầu năm 1999, Enron đã đền ơn cho Merrill bằng một thương vụ ngân hàng mang lại cho hãng này một khoản phí là 45 triệu đôla.
Các tay bào chữa cho Merrill Lynch lập luận rằng Enron chỉ là trường hợp duy nhất và những lá thư điện tử của những nhân viên phân tích mà ngài Spitzer phát hiện ra được chỉ là “những con sâu bỏ rầu nồi canh”. Nhưng những lập luận này không hề đúng. Các công ty đó chỉ là một số trong hàng tá các công ty mà Merrill đã từng đánh bóng. Các công ty này đã kiếm được hàng triệu đô-la từ các nhà đầu tư khi cổ phiếu của họ tăng giá. Bộ phận ngân hàng đầu tư của Merrill đã thu về được 115 triệu đôla tiền phí cho 52 giao dịch ngân hàng đầu tư từ các công ty mà họ đã thổi phồng lên.
Còn các nhà phân tích đưa ra những đánh giá dối trá đó cũng kiếm chác được trong các phi vụ đó - với các khoản tiền thưởng kếch xù gắn với doanh số bán cổ phiếu. Trong khi đó, các nhà đầu tư tin tưởng vào các đánh giá đó đã phải rơi vào cảnh khốn cùng.
Các tay bào chữa của phố Wall cũng cho rằng Merrill Lynch là trường hợp tệ nhất và các hãng khác không đến nỗi tồi tệ như vậy. Thế nhưng, lập luận này cũng sai nốt. Bản thân Tổng chưởng lý Spitzer đã phải cảnh báo rằng nếu các hành động của Merrill mà đã hèn hạ đến như vậy, thì hành động của các hãng môi giới lớn khác chắc chắn sẽ còn tồi tệ hơn.
Thực tế, các điều tra mới về Salomon Smith Barney đã làm cho các hành vi lừa dối của Merrill còn chưa là gì khi so sánh với hãng này. Từ năm 1997 cho tới năm 2002, Salomon Smith Barney, một đơn vị của Citigroup, đã thu được số tiền 809 triệu đôla từ dịch vụ bảo lãnh phát hành cho các công ty trong mảng viễn thông, cộng thêm 178 triệu đôla từ dịch vụ tư vấn sáp nhập. Tổng cộng là gần một tỷ đôla từ tiền phí - số tiền cao hơn so với bất kỳ hãng môi giới nào khác ở phố Wall có thể thu được.
Cùng thời gian đó, Salomon và siêu sao viễn thông Jack Grubman đã tung khắp phố Wall các khuyến nghị tốt đẹp về các công ty vốn là nguồn gốc của khoản tiền từ trên trời rơi xuống trị giá gần một tỷ đôla trên: AT&T, Verizon, WorldCom, Global Crossing, Level 3 Communications, Qwest Communications và nhiều công ty khác nữa.
Có thể dự đoán trước được, các nhà đầu tư đều tin tưởng Salomon đã bị đánh cho tơi bời khi mất tới 77,8% số tiền của mình với AT&T, 92,6% với Qwest, 99% với WorldCom, 97% với Level 3 Communications và tới 99,9% với Global Crossing. Tổng cộng, có tới 14 công ty về viễn thông mà Grubman và Salomon thuyết phục các nhà đầu tư mua cổ phiếu đã bị vỡ nợ hoặc đệ đơn xin phá sản.
Nhìn nơi đâu ở phố Wall cũng thấy những cảnh tượng tương tự xảy ra. Joseph Wolf tại UBS Warburg đã đưa ra khuyến nghị nên mua cổ phiếu của Optical Communications Products tới 10 lần trong khoảng thời gian từ tháng 11/2000 tới tháng 7/2002, để rồi cổ phiếu này giảm từ 18,88 đôla xuống còn có 1,19 đôla mỗi cổ phiếu.
Linda Mutschler tại Merrill Lynch đã đưa ra đánh giá nên mua đối với cổ phiếu của Sprint PCS vào tháng 7/2001, lúc này cổ phiếu đang ở mức giá 24,8 đôla; sau đó cô ta nâng mức đánh giá cổ phiếu này lên thành nên mua mạnh vào đầu năm 2002, ngay trước khi cổ phiếu này sụt giảm tới 50%. James Parmelee, nhà phân tích của Credit Suisse đã đưa ra 11 đánh giá nên mua mạnh đối với cổ phiếu của Corvis Corporation (một trong các khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh phát hành của hãng anh ta) trong khoảng thời gian từ tháng 11/2000 tới tháng 10/2001, trong khi giá của cổ phiếu này giảm từ 26,69 đôla xuống còn có 1,77 đôla cho mỗi cổ phiếu, tức là giảm 93,4% giá trị chỉ trong vòng chưa đầy một năm.
Đó là trò lừa đảo hay nhất mọi thời đại. Ngay cả băng đảng tội phạm Mafia cũng còn phải tái mặt vì ghen tị với những thủ đoạn đó.
(Trích cuốn sách "Kiếm tiền từ thị trường chứng khoán khủng hoảng" do Công ty Alpha Books phát hành)