Thứ trưởng Đỗ Hữu Hào. |
- Sau các cuộc giao ban sản xuất với Thủ tướng, Bộ sẽ triển khai biện pháp cụ thể nào để tăng tốc sản xuất công nghiệp?
- Bộ đã yêu cầu các tổng công ty lớn là dầu khí, than, khoáng sản tăng cường sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu vì nhóm sản phẩm này có khả năng cạnh tranh tốt và thị trường lớn.
Ngoài ra, Bộ cũng đang tổng hợp những khó khăn vướng mắc của dệt may, da giày, thiết bị điện, cơ khí để tìm hướng giải quyết. Nguyên nhân khách quan khiến sản xuất công nghiệp không đạt mục tiêu trong quý I cũng nhiều. Về phía doanh nghiệp, biện pháp chủ yếu vẫn là rà soát các yếu tố giá thành để tìm biện pháp tiết giảm chi phí.
- Các doanh nghiệp trong ngành dệt may cho rằng họ đã giảm chi phí hết mức, theo thứ trưởng có cách nào khác để nâng cao sức cạnh tranh không?
- Đối với những ngành như dệt may, da giày, thuốc lá, giấy, điểm yếu nằm ở khâu nguyên liệu. Bộ đã có quy hoạch phát triển các vùng trồng cây nguyên liệu lớn, nhưng khả năng đáp ứng chưa thấm vào đâu. Cái khó ở chỗ, năng suất và chất lượng cây công nghiệp còn thấp, như sợi kéo từ bông trong nước vừa ngắn vừa có nhiều tạp chất. Nông dân lại không tuân thủ theo hợp đồng đã ký kết với các nhà máy, khi giá cao liền tìm cách bán cho đầu nậu bên ngoài.
Dệt may bộn bề khó khăn. Ảnh: Anh Tuấn
- Vậy hiện tại tỷ lệ nội địa hóa của những mặt hàng công nghiệp xuất khẩu đạt khoảng bao nhiêu?- Đa số các công ty làm hàng xuất khẩu đều phải nhập nguyên liệu, vì vậy hàm lượng nội địa trong hàng xuất khẩu rất thấp, chỉ đạt gần 30%. Đơn cử như ngành dệt may, nếu gia công theo chỉ định của khách hàng thì giá trị gia tăng được 20% trên đơn giá thỏa thuận. Gặp khách rộng rãi có thể thêm khoảng 2%, song hiếm lắm, vì trước khi đặt hàng, họ đã khảo sát kỹ rồi.
- Một số ngành tự chủ được nguyên liệu như gạo, cà phê, chè... vẫn có hàm lượng giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu thấp, có phải nguyên nhân là do thiếu máy móc, công nghệ chế biến?
- Máy móc chế biến nông lâm hải sản của VN rất tốt như máy xay xát gạo thuộc loại tốt nhất khu vực, hơn cả Thái Lan. Máy chế biến cà phê, hạt tiêu cũng như vậy. Tuy nhiên, trên thực tế doanh nghiệp VN ngại làm hàng xuất khẩu "tinh". Họ quen thu mua hàng "thô" của dân rồi xuất, làm vậy thu lời ít nhưng quay vòng vốn nhanh hơn, lại không phải đầu tư, nghiên cứu.
- Với tình trạng này, liệu máy móc chế biến có nằm ngoài chiến lược phát triển các sản phẩm cơ khí?
- Trước mắt, sẽ tập trung vào nhóm máy móc có nhu cầu tiêu dùng trong nước và giá trị lớn như thiết bị của nhà máy nhiệt điện, thủy điện, giấy, xi măng với giá trị nhập khẩu đến 300-400 triệu USD/bộ. Bộ không đặt mục tiêu làm được cả 100% mà chỉ cần đạt tỷ lệ nội địa hóa 30-50% cũng giảm bớt nhập siêu nhiều rồi.
Để làm được những loại máy móc lớn như vậy, có 3 hướng. Thứ nhất, chúng ta tự nghiên cứu sáng tạo ra công nghệ, thứ hai là tiếp thu công nghệ của nước ngoài và áp dụng vào VN và thứ ba là nhập cái đầu rồi từ cái thứ hai, thứ ba thì tự làm. Chẳng hạn, máy thủy công ở các dự án điện, cái đầu thuê nước ngoài làm, cái thứ hai tự làm nhưng thuê nước ngoài tư vấn, từ cái thứ ba trở đi VN tự làm.
Song song với các máy móc công nghiệp lớn, các loại máy phục vụ chế biến cũng nằm trong danh mục hàng hóa trọng điểm được hưởng nhiều chính sách ưu tiên, nhưng làm ra doanh nghiệp phải sử dụng ngành này mới phát triển được.
Phong Lan thực hiện