Kết thúc năm 2012, nhiều doanh nghiệp niêm yết đã phải đau xót thừa nhận những sai lầm chiến lược của mình trong những năm qua mà chỉ khi nền kinh tế suy thoái mới bộc lộ hết những hậu quả khôn lường. Ba sai lầm dưới đây có thể coi là lớn nhất.
Đầu tư tài chính là một hình thức đầu tư chủ yếu thông qua hình thức góp vốn (mua cổ phần) thành lập doanh nghiệp lần đầu, mua, bán cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá, mua lại cổ phần, sáp nhập doanh nghiệp. Trên thế giới, các tổ chức đầu tư tài chính là các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, các cá nhân, tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Tại Việt Nam, những năm qua, gần như tất cả các công ty niêm yết đều thực hiện đầu tư tài chính. Do đó, các ngân hàng thương mại hoạt động như một nhà băng đầu tư và các công ty tài chính. Nhiều công ty chứng khoán hoạt động ngầm giống như một ngân hàng đầu tư.
Do đầu tư tài chính mang lại lợi nhuận rất nhanh và lớn trong thời gian ngắn nên nhiều công ty còn đi vay ngân hàng với lãi suất cao để thực hiện hoạt động này. Trong khi đó vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nghề kinh doanh cốt lõi của mình đang thiếu trầm trọng.
Không ít doanh nghiệp niêm yết mắc sai lầm trong việc vay vốn ngân hàng lãi suất cao để đầu tư tài chính. Ảnh: Hoàng Hà |
Điển hình nhất là “đầu tàu” trong ngành bất động sản, Tổng công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc (Mã CK: KBC). Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý 3/2012, doanh thu trong quý giảm 66%, trong đó doanh thu tài chính sụt tới 87%, chỉ còn 8,3 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế âm hơn 138 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng đầu năm lỗ đến 233 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước lãi 21,59 tỷ đồng.
Trong quý 3, KBC đã thoái sạch 26,5 triệu và 30 triệu cổ phần tại Ngân hàng Phương Tây (WEB) và Công ty cổ phần Phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Nam Việt. Tính đến 30/9/2012, tồn kho vọt lên tới 1.200 tỷ đồng, tăng 255 tỷ đồng so với đầu năm.
Theo một số chuyên gia phân tích tài chính, nguyên nhân chính làm cho KBC sa sút nghiêm trọng là các khoản đầu tư tài chính dài hạn rất “khủng” bằng vốn vay ngân hàng và phát hành trái phiếu.
Tại ngày 30/9/2012, KBC đầu tư vào 6 công ty liên kết 505 tỷ đồng và đầu tư vào 17 công ty (từ công ty đầu tư tài chính, đại học, năng lượng, khoáng sản, khu công nghiệp... và cả 2 ngân hàng) với số tiền lên tới 1.065 tỷ đồng (chưa kể góp vốn vào công ty con).
Để có số tiền rất lớn đầu tư tài chính, tính đến 30/9, KBC vẫn còn nợ dài hạn 3.841 tỷ đồng. Trong đó nợ vay 3 ngân hàng 837 tỷ và nợ 3.000 tỷ đồng trái phiếu do KBC phát hành cho 4 ngân hàng: Vietinbank 700 tỷ, BIDV 500 tỷ, WesternBank và NVB 1.800 tỷ đồng trái phiếu.
Một sai lầm nữa của nhiều doanh nghiệp niêm yết là phát triển quá nóng và lập các công ty con như gà đẻ trứng. Trong khối doanh nghiệp nhà nước, những tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã lập kỷ lục về đẻ công ty con, công ty cháu kinh doanh giống nhau và trái ngành từ “vốn mồi” của Nhà nước (công ty mẹ) với giá lúc thành lập chỉ có "1 chấm". Sau đó, các công ty này ào ạt lên sàn, đẩy giá lên tới "5 chấm" đến "9 chấm", bán ra từ từ, nghi vấn để trục lợi cá nhân.
Điển hình là Tập đoàn Dầu khí và Tập đoàn Sông Đà. Trong khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước, việc phát triển quá nóng, đẻ công ty con và dự án như gà để trứng chủ yếu sử dụng vốn vay ngân hàng.
Hai trường hợp điển hình khác là trong những ngày cuối cùng của năm 2012, giới kinh doanh chứng kiến Mai Linh, một đại gia vận tải hành khách bị vỡ nợ. Mai Linh dự tính bán hơn 1.000 xe trong số 12.000 xe đang hoạt động để thu hồi về 200-300 tỷ đồng dùng để trả nợ cho các nhà đầu tư.
Ông chủ tịch của Mai Linh, Hồ Huy, thẳng thắn thừa nhận, doanh nghiệp thua lỗ là do sai lầm, dùng tiền vay ngắn hạn với lãi suất cao ngất ngưởng để đầu tư dài hạn 5-10 năm, đầu tư tràn lan không tính đến hiệu quả và khả năng thu hồi vốn.
Sự mở rộng không ngừng của Mai Linh trong vài năm gần đây với số đầu xe liên tục tăng, đứng đầu cả nước, “đẻ” ra gần 60 công ty con, mua hàng loạt các bất động sản làm trụ sở, trạm dừng chân, đầu tư vào vận tải đường dài.... Trong khi đó lãi từ công ty con trả về cho công ty mẹ không đủ bù lãi trả cho người góp vốn đã khiến doanh nghiệp lao đao vì nợ nần, đến hạn không trả được.
Tập đoàn Thái Hòa Việt Nam (Mã THV) là một ví dụ điển hình về phát triển nóng, vay tiền ngân hàng với lãi suất “cắt cổ” để lập công ty con, đầu tư vào các dự án, bất chấp hiệu quả đồng vốn dẫn đến chìm trong nợ nần. Ông chủ của doanh nghiệp này, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Nguyễn Văn An phải chấp nhận thế chấp cả nơi mình đang ở để vay tiền.
Suốt những tháng đầu năm 2012, Thái Hòa đã liên tục phải đàm phán với các chủ nợ là các ngân hàng nhằm chuyển các khoản nợ ngắn hạn sang dài hạn trong bối cảnh doanh nghiệp này ngấp nghé bờ vực phá sản, mất thanh khoản, không có khả năng thanh toán.
Hàng loạt các dự án trồng cà phê dàn trải trên nhiều tỉnh thành và sang tận Lào đã đẩy doanh nghiệp này vào khó khăn do vay quá nhiều mà không có nguồn thu đủ lớn và kịp thời để trang trải các khoản nợ đến hạn.
Hiện THV có tới 10 công ty con (hai công ty tại Lào), tổng vốn điều lệ của 10 công ty này lên tới 575 tỷ đồng (trong đó, Thái Hòa góp khoảng 360 tỷ đồng), vượt qua cả vốn điều lệ của công ty mẹ 557,5 tỷ đồng. Giá cổ phiếu THV từ mức 16.000-17.000 đồng lúc mới lên sàn (tháng 12/2010) rớt xuống mức thấp kỷ lục là 800 đồng vào ngày 12/11/2012.
Tình trạng doanh nghiệp gặp muôn vàn khó khăn do nợ nần, thua lỗ, mất thanh khoản... do đầu tư dàn trải, phát triển nóng xảy ra rất nhiều trong năm 2012, nhất là trong lĩnh vực bất động sản như HQC, VPH, QCG, KBC, NTB, PVR.
Trong thời kỳ nền kinh tế phát triển nóng, các doanh nghiệp đã ồ ạt vay vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Tỷ lệ 1 vốn 4 vay thậm chí còn được coi là bình thường và có những trường hợp vay gấp tới hàng chục lần so với vốn tự có, hệ quả là nợ ngắn hạn cao hơn nhiều tài sản ngắn hạn.
Nợ nần quá nhiều, lãi suất cao, không bán được hàng... đã khiến nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục, lỗ lũy kế thậm chí vượt vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu bị âm, không ít doanh nghiệp đang ở vào vị trí hàng đầu chìm xuống bùn đen, ông chủ doanh nghiệp trắng tay sau bao nhiêu năm gây dựng. Tình trạng này có thể sẽ còn tiếp diễn trong năm 2013 bởi tình hình tài chính của rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện.
Quá tin vào dự báo sai lầm về cung cầu bất động sản cũng là một trong những yếu tố gây nên tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp niêm yết. Suốt trong 5 năm (2007-2011), nhiều quy hoạch, phân tích, dự báo đều phạm một sai lầm rất lớn là nhầm lẫn cung cầu bất động sản khi đều nhận định: Cung quá thiếu hụt so với cầu.
Nhiều doanh nghiệp niêm yết không thoát khỏi sức hút ghê gớm của lợi nhuận từ thị trường bất động sản. Ảnh: Hoàng Lan |
Nhiều doanh nghiệp niêm yết không thoát khỏi sức thu hút ghê gớm của lợi nhuận từ thị trường bất động sản nóng lên từng ngày, liều lĩnh vay tiền với lãi suất cao ngất ngưởng trong khi vốn của chủ đầu tư là không đáng kể.
Không ít doanh nghiệp niêm yết còn rót tiền từ lĩnh vực kinh doanh chính của mình, không phải là bất động sản, đổ vào đầu cơ địa ốc. Khi tiền bơm ra từ hệ thống ngân hàng sụt mạnh, bong bóng có nguy cơ vỡ tung, cung và cầu thị trường đều đóng băng giá giảm một nửa nhưng vẫn chưa biết khi nào tới đáy, nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.
Với một loạt các chính sách quyết liệt mới của Chính phủ từ cuối năm 2012 đến giữa tháng 1/2013 nhằm vực dậy thị trường bất động sản, các chuyên gia tuy vẫn dè dặt, nhưng nhìn chung đa số là cái nhìn khá lạc quan về thị trường bất động sản năm 2013. Tuy nhiên, sau khi “niềm tin bị đánh cắp”, đa số các công ty bất động sản niêm yết trên hai sàn cho rằng năm 2013 vẫn còn muôn vàn khó khăn, giải quyết được lượng hàng tồn kho đã là may mắn rồi.
TS. Phạm Sỹ Liêm, Phó chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam cho rằng, vấn đề lúc này là chúng ta phải cân bằng lại quan hệ cung cầu mới là cách cứu thị trường bất động sản. Trên quan điểm cá nhân, ông Liêm cho rằng, bất động sản năm 2013 vẫn có dấu hiệu suy thoái nhưng nếu chúng ta biết áp dụng giải pháp thích hợp vẫn có thể xoa dịu mức độ trầm trọng và giúp thị trường khởi sắc.
Theo VnEconomy