Tàu du lịch đưa khách đi tham quan vịnh Hạ Long. |
Trong khi xuất khẩu tăng chậm, thị trường chứng khoán rơi vào cảnh ế ẩm triền miên, công nghiệp du lịch của Việt Nam năm 2002 lại bất ngờ bùng nổ với 2,6 triệu lượt khách quốc tế, cao nhất trong lịch sử. Tăng trưởng doanh thu du lịch cả năm đạt tới 25%.
Khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch tăng nhanh, chứng tỏ một bộ phận lớn dân cư đã vượt qua tiêu dùng vật chất thông thường, chuyển sang các dịch vụ cao cấp hơn.
Cơ cấu ngành có nhiều chuyển biến
Với tổng doanh thu 270.000 tỷ đồng, tăng 12,7% so với năm 2001, ngành dịch vụ năm nay đã khẳng định ưu thế vượt trội trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Đáng chú ý, càng về cuối năm, sự khởi sắc của ngành này càng rõ nét. Các khách sạn kín chỗ, các tour du lịch hoạt động hết công suất, triển lãm, hội chợ nườm nượp người ra vào…
Đánh giá về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại Việt Nam năm 2002, báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) nêu bật yếu tố "ổn định chính trị" và coi đây là nguyên nhân căn bản dẫn tới sự bứt phá trong khu vực dịch vụ. WB cũng nhận định, sự thu hẹp tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp trong tổng GDP đang tạo ra tiền đề vững chắc để sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp.
Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức nhưng nhiều khả năng, tỷ trọng khu vực dịch vụ và công nghiệp trong GDP năm nay sẽ cùng đạt trên 40%.
Thị trường tiền tệ sôi động
Thoát khỏi giảm phát kéo dài, thị trường tiền tệ, ngân hàng tại Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu bứt phá. Các ngân hàng thiếu tiền để cho vay đầu tư - một hiện tượng ít gặp trong lịch sử. Một nghịch lý đã xảy ra: trong khi lãi suất ở Mỹ, EU, châu Á… giảm xuống thì lãi suất của Việt Nam không ngừng tăng, hiện đã đạt mức trung bình 8,2%/năm.
Luật Doanh nghiệp phát huy hiệu quả với trung bình 2.000 doanh nghiệp mới được thành lập mỗi tháng đã tạo ra nhu cầu rất cao về vốn nội tệ. Trong khi các ngân hàng coi đây là cơ sở để tăng lãi suất huy động tiền đồng, thì người dân cũng có xu hướng giảm tích trữ tài sản bằng ngoại tệ. Kết quả tất yếu của quá trình này là tỷ giá USD/VND tăng ở mức thấp, chỉ 2,2%, trong khi lạm phát ổn định ở mức 3,2%. Nếu gửi tiết kiệm bằng USD trong năm (lãi suất trung bình dưới 3%) thực lãi chỉ khoảng 2%, trong khi thực lãi khi gửi bằng VND đạt tới 5%.
Một yếu tố khác thúc đẩy thị trường tiền tệ tăng trưởng là giá vàng leo thang trong những tháng cuối năm dẫn tới nhu cầu về kim loại quý giảm mạnh. Cùng với sự đóng băng của thị trường chứng khoán (giao dịch trung bình chỉ 2 tỷ/ngày, bằng 1/500 tổng giao dịch của hệ thống ngân hàng và chỉ số VN-Index liên tục giảm) và thị trường bất động sản, người dân đã chuyển hướng đầu tư sang đồng nội tệ.
Lại nhập siêu
Việc thực thi hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã tăng gấp đôi giá trị ngoại thương giữa hai nước trong năm 2002. Tuy nhiên, điều trông đợi của nhiều nhà phân tích là Việt Nam có thêm một năm xuất siêu như năm 2001 (thặng dư thương mại trên 400 triệu USD) đã không xảy ra. Trái lại, tỷ lệ nhập siêu cao kỷ lục: 2 tỷ USD (xuất khẩu đạt 17 tỷ USD). Tốc độ tăng xuất khẩu và nhập khẩu trong năm lần lượt đạt 6 và 17%.
Nhập khẩu tăng chứng tỏ sự thiếu chủ động của Việt Nam trong giao lưu thương mại quốc tế. Trước thềm hội nhập căn bản vào AFTA năm 2003 (đến năm 2005 là hội nhập thực chất với trên 90% số mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN chịu thuế 0-5%), đây là một trở ngại cần nhanh chóng khắc phục. Các ngành như xi măng, giấy, thép… sẽ đặc biệt khó khăn khi Việt Nam buộc phải mở cửa thị trường trong vài tháng sắp tới.
Sức ỳ của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Với tổng vốn FDI đổ vào chỉ là 1,3 tỷ USD, bằng một nửa so với năm 2001, không thể coi đây là năm thắng lợi của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn nữa, điều này còn làm mục tiêu thu hút 12 tỷ USD giai đoạn 2001-2005 trở nên ngày càng xa vời.
Tuy nhiên, có một điểm đáng chú ý là số lượng dự án (trên 600) cao gấp rưỡi so với năm ngoái. Một số quan chức Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhận định, có sự chuyển biến từ lượng sang chất của các dự án FDI.
Năm 2003 sẽ khó khăn
Tổng vốn đầu tư xã hội 184.000 tỷ đồng trong năm 2002 (tăng 12,5% so với 2001), bằng 34% GDP, so với năm 2001 chỉ là 33,7% GDP, không chỉ có ý nghĩa là yếu tố trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, còn là một kênh tiêu thụ quan trọng (đầu vào cho sản xuất). Đây là tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phát triển chậm chạp.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 7-7,5% như Quốc hội đề ra trong bối cảnh chi ngân sách đang rơi vào tình thế khó khăn (chủ yếu thất thoát ở các công trình đầu tư cơ bản) thì nguồn vốn đầu tư cần đạt ít nhất 200.000 tỷ đồng. Đây quả là thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam.
Hy vọng, với sự ủng hộ ngày một nhiều hơn của các tổ chức quốc tế (mới đây nhất là mức cam kết tài trợ 2,5 tỷ USD năm 2003), cùng quá trình mở rộng giao lưu kinh tế toàn cầu, Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội về tăng trưởng.
Thanh Xuân