Sau đó, có thêm một anh thợ cơ khí ở Hà Nội cũng làm ra chiếc tương tự nhưng bị cấm bay. Điểm chung của những chiếc "trực thăng" này là cuối cùng, chúng đều được trưng bày hoặc để làm kỷ niệm. Một Việt kiều Pháp cũng được coi là người Việt Nam đầu tiên chế tạo ra chiếc "tàu ngầm mini" vào năm 2010. Nó dài 3,2 m, cao 1 m, ngang 1 m và nặng hơn một tấn. Nó đã được thử nghiệm khá thành công và phát triển ra thêm vài phiên bản. Gần đây hơn, vào năm ngoái, một doanh nhân vùng lúa Bắc Bộ cũng đã tự chế ra một chiếc "tàu ngầm". Dù sau đó thử nghiệm không mấy thành công, ông vẫn đang tiếp tục làm chiếc thứ hai.
Vào năm 1903, tại nước Mỹ, anh em nhà Wright đã sáng chế chiếc máy bay đầu tiên có động cơ và họ được coi là ông tổ của ngành hàng không thế giới. Bốn năm sau đó, nhà sáng chế người Pháp Paul Cornu là người đầu tiên tự chế ra chiếc máy bay trực thăng của mình. Ông tự lái và bay lên được 50 cm trong thời gian 20 giây. Lịch sử của tàu ngầm thì xưa hơn nữa. Mùa xuân năm 1776, khi Hải quân Anh phong tỏa chặt Vịnh New York trong thời gian chiếm đóng nước Mỹ, một kỹ sư hàng hải có tên là David Busnell đã nảy ra ý tưởng chế tạo một chiếc tàu đặc biệt có thể đi ngầm dưới nước, bí mật mang mìn tiếp cận và đánh chìm các tàu chiến to lớn của Anh để giải phóng thành phố. Đó được coi là chiếc tàu ngầm đầu tiên của thế giới. Nó có hình quả trứng, cao 2 m, rộng 0,9 m và chỉ có một người điều khiển để kiêm nhiệm tất cả mọi việc: thuyền trưởng, lái tàu, hoa tiêu, thợ máy và thủy thủ chiến đấu.
Như vậy, tính từ khi chiếc máy bay trực thăng đầu tiên trên thế giới ra đời (1907) cho đến chiếc tương tự của Việt Nam (2003) là 96 năm. Khoảng cách tương ứng của tàu ngầm thì dài hơn, tới 234 năm. Kể từ khi những sản phẩm nguyên thủy đó của nhân loại ra đời cho tới nay, ngành công nghiệp vũ khí (trong đó tất nhiên bao gồm có trực thăng và tàu ngầm) của thế giới đã phát triển với tốc độ khủng khiếp. Ngày nay, chúng đã ở mức quá tối tân và vô cùng hiện đại.
Vậy hà cớ gì mà chúng ta lại đi khuyến khích hoặc cổ vũ cho việc sản xuất ra những thứ mà thế giới đã có hàng trăm năm? Đấy là chưa kể, những sản phẩm mà chúng ta đang hả hê thì thực sự mà nói, nó không khá hơn mấy so với những thứ ra đời lúc nguyên thủy. Dễ tính thì có thể cho là "trực thăng" ta làm ra bay cao hơn được vài mét, lâu hơn được vài phút. "Tàu ngầm" thì dài hơn một tý, to hơn một tý, lặn sâu và xa thì chưa biết nhưng sức chứa thì như nhau (đều là một người).
Khi định làm ra sản phẩm gì thì ai cũng hướng tới mục đích cụ thể, thậm chí là rất cao cả. Nhưng nghĩ và có thể làm là hai việc quá khác nhau. Để những "trực thăng" hay "tàu ngầm" made in Vietnam bay được lên trời hay lặn xuống đáy biển phục vụ cho quốc phòng, kinh tế, du lịch của Việt Nam theo tôi là điều khá xa xỉ với điều kiện của các bác thợ cơ khí nói trên.
Trong việc chế tạo tàu ngầm, công nghệ "tuần hoàn không khí" (AIP) là điểm cốt yếu đầu tiên phải giải quyết mà cũng chưa có nhiều quốc gia làm chủ được nó. Còn với việc chế tạo máy bay trực thăng, việc làm chủ được nguyên lý "lực nâng khí động học" (lực nâng Zhukovsky) cũng rất khó khăn. Ngay cả khi xử lý được những công nghệ cơ bản này thì việc hoàn chỉnh các hạng mục khác để cho tàu ngầm, trực thăng hoạt động an toàn cũng rất nan giải. Dù tôi cũng có xu hướng tin vào những điều không thể nhưng lý trí của tôi trong câu chuyện này thì lại không như vậy. Liệu có ai lạc quan dám trèo lên chiếc "trực thăng" đó, hay chui vào chiếc "tàu ngầm" kia để vi vu trên trời dưới biển không? Tôi e là đứng ngoài vỗ tay thì được, còn hành động thì có lẽ là không.
Cá nhân tôi cho rằng, nên coi việc làm ra những sản phẩm trên là sự đam mê, là "thú chơi" của những bác thợ cơ khí, những anh Hai Lúa thôi, chứ coi nó là niềm tự hào trí tuệ Việt Nam thì có vẻ là ta đang tự huyễn hoặc mình. Có thể coi chúng là cách để chúng ta chứng minh rằng, người Việt Nam rất khéo tay và lấy những điển hình này để khuyến khích niềm say mê sáng tạo trong cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ rồi cộng với những "tư duy muốn thay đổi thế giới" để mong có thêm những "nhân tố vượt tầm" thì tốt. Chứ không thì, lại có thêm những "thế hệ dập khuôn", ra trường rồi lại đam mê, mải miết "phát minh" ra "chiếc ôtô đầu tiên của người Việt" thì thật gay go.
Nhân loại đang sống ở kỷ nguyên công nghệ số. Một nghiên cứu cho thấy, cứ mỗi năm, tốc độ phát triển công nghệ thông tin lại bằng tất cả các năm trước cộng lại. Nếu so sánh như thế thì những chiếc "trực thăng", "tàu ngầm" kể trên của Việt Nam không phải chỉ cách những chiếc đầu tiên của nhân loại cả trăm năm mà phải là vạn năm, triệu năm. Vậy thì quan trọng không phải ta sẽ làm được những cái gì mà là suy nghĩ để làm được cái gì cần thiết mới là điều quan trọng. Chẳng hạn như, thiết bị bay có thể quan sát Trái Đất ở độ cao 23 km được chàng trai trẻ Phạm Gia Vinh chế tạo năm ngoái gây chú ý với thế giới. Hay gần gũi hơn là sản phẩm kính giá rẻ dành cho người khiếm thị của tiến sĩ Nguyễn Bá Hải vừa được người đứng đầu Chính phủ chỉ đạo đầu tư. Nó có thể không mới với thế giới nhưng rất thiết thực, hữu ích và có giá thành rất phù hợp với điều kiện Việt Nam. Những thứ như thế, chúng ta thực sự đang rất cần.
Lựa chọn hướng đi là điều quan trọng và nó bắt đầu từ cách nghĩ, cách làm và cả cách cổ vũ. Nếu không làm được như người Nhật, như người Hàn đứng lên thành cường quốc công nghệ sau chiến tranh thì như người Singapore cũng là lựa chọn tuyệt vời. Chưa ai nói, đảo quốc sư tử này là cái nôi của công nghệ, nhưng họ phát triển thành công các ngành dịch vụ, kiếm nhiều tiền rồi thì mua công nghệ cũng hóa Rồng đó sao. Kết quả là thước đo cuối cùng. Vậy đâu cứ phải cố làm ra máy bay, tàu ngầm mới là thịnh vượng!
Nguyễn Anh Tuấn