Em là một bệnh nhân vừa khám lần đầu vì trầm cảm. "Con thấy mình không còn thích sống nữa, chỉ muốn nằm xuống và ‘đi’ luôn", "Con là kẻ thất bại nên không ai muốn chơi với con, cả người thân cũng không ai ủng hộ con", "Con là kẻ bỏ đi, con không còn ham thích điều gì trên đời này hết"... Cứ như vậy, trong nước mắt, em lặp đi lặp lại những câu có ý nghĩa tương tự. Tôi kiên nhẫn lắng nghe, thỉnh thoảng đặt một câu hỏi để cháu tiếp tục nói về những cảm xúc, suy nghĩ của bản thân.
Một lúc lâu sau, khi cảm xúc của em dần ổn định, bình tĩnh hơn, tôi nhanh chóng đặt cho em cuộc hẹn vào sáng thứ bảy hôm sau, ngày tôi thường dành riêng cho gia đình. Tôi hỏi thêm vài câu để chắc chắn về nguy cơ tự tử của em, dặn lại một lần nữa là cứ gọi bất kỳ lúc nào em cần, và nếu như tôi chưa trả lời thì hãy nhắn tin. Tôi cũng nhờ em chuyển điện thoại cho mẹ để nói về tình trạng của cháu.
M., nữ, 14 tuổi, nhập khoa hồi sức với chẩn đoán "ngộ độc thuốc", được đăng ký khám tâm lý. Em còn mê nên chỉ gặp được ba và mẹ. Em đi học, buồn bã cả tuần nhưng ba mẹ không để ý vì bận đi làm. Người cha bảo có "la vài tiếng" vì chuyện em bỏ ăn, học kém, "vậy mà, không ngờ". Em nằm viện ba ngày thì khỏe, được chuyển lên khoa thường và được khám tâm lý lần đầu. Em ủ dột, chưa thổ lộ nhiều về chuyện của mình nhưng đã chủ động yêu cầu đặt lịch hẹn tiếp với tôi.
Nhưng hai hôm sau, hai ba con cùng xuống để hủy hẹn vì được xuất viện. Dù được thuyết phục, tạo điều kiện thuận lợi để em được tiếp tục tái khám, nhưng người cha vẫn hờ hững, nói: "Bác sĩ thông cảm, nhà em xa, hai vợ chồng đều rất bận nên không tái khám cho nó được". Không thuyết phục được, tôi đành xin phép người cha cho con được giữ số điện thoại để có thể liên lạc với tôi khi cần.
Thống kê tại Mỹ chỉ ra cứ khoảng 30 trẻ ở độ tuổi từ 3 đến 17 thì có một trẻ mắc trầm cảm. Tình trạng trầm cảm nặng thường kèm theo những ý tưởng và hành vi tự sát. Ở trẻ vị thành niên, trung bình khoảng 53 học sinh tuổi trung học thì có một trẻ tự sát, phải nhập viện để điều trị. Tự sát là nguyên nhân gây chết đứng thứ hai trong nhóm trẻ vị thành niên. Khoảng 100 người mắc trầm cảm thì có 40 người tái phát. Những người đã tự sát ít nhất một lần sẽ có nguy cơ tiếp tục làm lại trong tương lai cao hơn những người chưa từng tự sát.
Tại Việt Nam, một nghiên cứu ở học sinh học cấp hai cho thấy tỷ lệ có biểu hiện trầm cảm chiếm 41%, trong nhóm này 26% có ý định tự sát và gần 4% đã từng tự sát ít nhất một lần. Yếu tố nguy cơ liên quan đến trầm cảm là sự bạo hành tinh thần và thể chất trong gia đình và căng thẳng trong việc học tập. Nếu dựa vào thống kê từ các bệnh viện, số lượng người tự sát có thể sẽ không nhiều vì bệnh nhân thường có chẩn đoán khác kiểu như ngộ độc hay tai nạn. Bảo hiểm y tế sẽ không thanh toán cho những trường hợp tự sát, dù nó là hậu quả của một tình trạng bệnh hoặc sang chấn tâm lý.
Ở độ tuổi vị thành niên, giai đoạn chuyển đổi từ trẻ em sang người trưởng thành, có rất nhiều sự thay đổi về thể chất, nhận thức, cảm xúc, xã hội và tâm lý. Những thay đổi thường làm cho trẻ gặp nhiều khó khăn trong việc tự điều chỉnh để thích nghi trong học tập, trong mối quan hệ với mọi người và những vấn đề khác trong cuộc sống. Những thay đổi, khó khăn trong khả năng thích nghi là yếu tố có thể dẫn đến những rối loạn tâm thần và làm tăng nguy cơ tự sát ở trẻ vị thành niên. Bên cạnh đó, tư duy muốn con phải nghe lời ba mẹ tuyệt đối của nhiều cha mẹ Việt dễ gặp phải sự chống đối ở trẻ vị thành niên.
Còn với những trẻ không chống đối, sự dồn nén tâm lý lâu ngày có thể đưa đến những hành vi phản ứng không ngờ. Một số trẻ tự sát vì trầm cảm, một số khác tự sát vì "giận cha mẹ", một số vì lo lắng không đáp ứng được yêu cầu của việc học tập, kỳ vọng của người khác.
Khi con gặp vấn đề, những phản ứng chối bỏ của phụ huynh, kiểu như "chuyện nhỏ vậy cũng lo, cũng buồn", hoặc ậm ừ cho qua chuyện. Hoặc trò chuyện với thái độ "bắt lỗi" hoặc bắt con phục tùng kiểu như "Tại sao con làm như vậy?", "phải làm như vầy" đều có nguy cơ làm nặng thêm vấn đề, tăng thêm mâu thuẫn giữa con và cha mẹ.
Trò chuyện với con, lắng nghe con không phán xét là một trong những kỹ năng có thể giúp phụ huynh hỗ trợ con mình vượt qua những khó khăn tâm lý và phòng ngừa được nguy cơ tự sát. Chấp nhận cảm xúc của con là một khởi đầu tốt. "Hình như con đang buồn phải không?", "Con có thể kể để ba, mẹ biết thêm và mình cùng bàn cách không?", đặt những câu hỏi mang tính hỗ trợ nhưng tôn trọng trẻ. Đặt những câu hỏi giúp con tự suy nghĩ ra giải pháp: "Theo con thì con nên làm gì để...?", "Con nghĩ còn cách nào nữa không?"; giúp con tự nhận ra những kết quả của những cách giải quyết đó: "Nếu mình làm theo cách này, theo con, chuyện gì sẽ xảy ra?". Hay khéo léo đưa vào giải pháp dựa trên kinh nghiệm của mình: "Ý của mẹ là vậy, con nghĩ sao?". Và cuối cùng, tạo cho con có cảm giác con là người đã đưa ra quyết định cho bản thân mình.
Tôi đã mất hẳn liên lạc với gia đình M. nhưng thỉnh thoảng vẫn băn khoăn. Biết bao nhiêu công sức của những đồng nghiệp ở khoa hồi sức đã cứu sống đứa trẻ, để rồi em được trả về xã hội với nguy cơ tự sát trong tương lai? Biết bao nhiêu công sức cha mẹ bỏ ra để nuôi con đến tuổi 14, và rồi để em tiếp tục sống trong một nguy cơ mà những công lao ấy sẽ mất trắng?
Còn ở trường hợp đầu tiên, được ba mẹ hiểu và hỗ trợ, cháu cải thiện nhanh chóng sau vài tuần và ngưng hẳn điều trị sau 6 tháng. "Trước khi gặp bác sĩ, chưa từng có ai đủ kiên nhẫn ngồi lắng nghe con lâu như vậy", tôi nhớ mãi lời em.
Phạm Minh Triết