Những vụ án hủy hoại môi trường gây chấn động, những doanh nghiệp bất động sản gây thị phi vì chất lượng sống của dân cư, cháy nổ và ách tắc giao thông, những cuộc đình công ở các nhà máy gia công và chế xuất, và tất nhiên, những cuộc khủng hoảng truyền thông - nơi người ta nói rất nhiều đến “đạo đức kinh doanh”.
Tháng 8 năm nay, tôi nhận được tờ giấy thông báo từ một tập đoàn xây dựng. “Chúng tôi sẽ tiến hành xây dựng từ ngày... tới...” - tờ thông báo viết. Nếu không có mảnh giấy này, tôi còn không biết rằng họ đang xây một cao ốc mới gần nhà mình. Họ làm việc đó rất lặng lẽ.
Nhưng tờ thông báo còn đi xa hơn, khi đưa ra hàng loạt cam kết: nào là “không gây ồn hay ô nhiễm”, “đảm bảo không làm ảnh hưởng tới sinh hoạt của người dân” hay thậm chí "đây là tòa nhà văn phòng, không có thực nghiệm hay thí nghiệm hoá học”.
Tờ giấy đó không có tính pháp lý. Nó chỉ là cách mà một doanh nghiệp Nhật Bản thể hiện trách nhiệm với cộng đồng.
Đây là một ví dụ nho nhỏ trong rất nhiều ví dụ về trách nhiệm mà doanh nghiệp phải thực hiện đối với xã hội tại Nhật mà tôi từng biết. Trái với suy nghĩ, trách nhiệm lớn nhất của doanh nghiệp nằm ở việc tạo ra của cải vật chất, công ăn việc làm và đóng thuế làm giàu cho đất nước. Ở đây, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn vượt lên trên những hoạt động đó.
Tôi làm việc tại một doanh nghiệp linh kiện ôtô. Trong thảm họa động đất và sóng thần năm 2011, công ty tôi đã đầu tư mua một xe van khổng lồ để mỗi tuần cử các nhóm nhân viên tình nguyện lên Tohoku góp phần tái thiết khu vực này. Hàng trăm, hàng nghìn doanh nghiệp khác cũng tham gia, và cách chung tay giải quyết thảm họa không chỉ là góp tiền, mà còn dùng rất nhiều tâm sức và nỗ lực để khôi phục đời sống vùng Tohoku, mà không cần tới các hoạt động PR ầm ĩ.
Tất cả những trách nhiệm xã hội này của doanh nghiệp còn góp phần san sẻ với chính phủ các gánh nặng xử lý các vấn đề an sinh xã hội.
Tại Việt Nam, sự phát triển kinh tế đồng nghĩa với sự gia tăng chóng mặt của số lượng các doanh nghiệp lớn và các đại dự án. Khái niệm "tránh nhiệm xã hội của doanh nghiệp" không phải là mới. Từ năm 2005, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam kết hợp với nhiều bộ ngành đã khai sinh giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” tôn vinh những doanh nghiệp có trách nhiệm với cộng đồng. Từ đó đến nay, họ đã trao giải cho nhiều công ty; tổ chức nhiều cuộc hội thảo để gửi những thông điệp gần xa tới ông chủ các doanh nghiệp. Nhưng những nỗ lực ấy vẫn chỉ như muối bỏ biển.
Vẫn có hàng nghìn lao động Việt Nam phải làm việc trong điều kiện thấp, nước thải các nhà máy vẫn bị xả trộm ra sông, chất độc vẫn bị tuồn ra biển... Nhiều thảm họa môi trường gây ra bởi các doanh nghiệp để lại những hậu quả mà chính phủ đã tốn rất nhiều tiền để khắc phục và cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng nặng nề.
Hàng ngày, người dân tại các đô thị lớn ở Việt Nam vẫn lầm lũi chen chúc nhau trên những con đường chật hẹp, len kín người. Người ta đổ lỗi cho đất chật người đông. Nhưng các doanh nghiệp bất động sản có nhìn thấy trách nhiệm của mình trong đó, khi họ đua nhau mua hàng loạt khu đất vàng, tiến hành xây những tổ hợp nhà ở, trung tâm thương mại khổng lồ mà không kèm theo các giải pháp cải thiện giao thông, cơ sở hạ tầng...
Rất nhiều nước trên thế giới đã sớm nhìn ra các vấn đề này, vì vậy, xuất phát từ những ý niệm ban đầu nghiêng về phương diện đạo đức, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã dần dà được pháp lý hóa hoặc ít nhất, tạo thành những quy định bất thành văn ràng buộc các công ty, tập đoàn. Chúng có vai trò ảnh hưởng quyết định đến mọi mặt, từ cấp phép đến kiểm tra, giám sát, xử phạt mọi hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình tồn tại.
Việt Nam chắc chắn cũng vậy, cần có một sự quy định chặt chẽ hơn, có giá trị pháp lý hơn với các trách nhiệm xã hội của mọi doanh nghiệp, từ phía nhà nước. Bởi cái giá của phát triển kinh tế để đánh đổi đến an sinh xã hội hay an ninh môi trường là không thể bù đắp. Và không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu được rằng, muốn làm giàu, trước hết và ít nhất phải không xâm phạm đến lợi ích chính đáng của cộng đồng.
Quỳnh Châu