Lý Thường Kiệt sinh năm 1019 ở làng An Xá, xã Quảng Đức, thành Thăng Long (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội), sau chuyển sang phường Thái Hòa, nội thành Thăng Long. Ông vốn họ Ngô, tự là Thường Kiệt. Vì lập được công lớn nên được ban quốc tính và đổi sang họ Lý.
Lý Thường Kiệt có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Tống vào những năm 1075-1077, đặc biệt nổi tiếng với bài thơ Nam quốc sơn hà cùng phòng tuyến Như Nguyệt, được ông cho xây dựng trên bờ phía nam sông Cầu.
Năm 1076, nhà Tống dưới sự chỉ huy của tướng Quách Quỳ theo đường bộ ồ ạt vào Đại Việt và bị chặn bởi hệ thống phòng thủ kiên cố. Quách Quỳ nhiều lần liều mạng cho quân đóng bè để tấn công vượt phòng tuyến nhưng đều thất bại.
Giữa lúc quân giặc đang rệu rã, để cổ vũ tinh thần binh sĩ, Lý Thường Kiệt dùng kế sai người giả làm thần nhân nấp ở trong đền thờ Trương Hát bên bờ nam bến đò Như Nguyệt đọc thơ mắng giặc, báo trước sự thất bại và động viên quân sĩ: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư", nghĩa là "Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời". Bài thơ đã khiến quân giặc khiếp đảm, không đánh đã tan.
Sau bài "thơ thần", cuộc chiến chống Tống vẫn tiếp tục. Đến năm 1077, quân Tống rút lui hoàn toàn. Thắng lợi này có ý nghĩa to lớn, đập tan vĩnh viễn mộng xâm lược của nhà Tống, khiến tập đoàn phong kiến thống trị Trung Hoa phải hơn thế kỷ sau không dám nghĩ đến việc xâm lăng Đại Việt.