- Bộ GD&ĐT đã nhiều lần quyết định giảm tải nội dung dạy học nhưng đến nay học sinh, phụ huynh vẫn than thở chương trình học nặng, Bộ trưởng nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
- Trong 3 lần cải cách giáo dục (năm 1950, 1957, 1982) và lần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông năm 2000 vừa qua, tư tưởng chỉ đạo và việc thiết kế chương trình giáo dục phổ thông vẫn được giữ theo nguyên tắc: Chú trọng truyền thụ kiến thức lý thuyết một chiều cho học sinh, chưa coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Các môn học của phổ thông được xây dựng theo các lĩnh vực khoa học riêng rẽ, ví dụ như Văn, Sử, Địa, Toán, Lý, Hóa... Nội dung sách giáo khoa các môn học của từng cấp đều thiết kế theo vòng tròn đồng tâm.
Do kiến thức của nhân loại phát triển rất mạnh, nên với cách thiết kế đó khối lượng kiến thức cần đưa vào nhà trường ngày càng lớn, dồn ép lần lượt vào các bậc học cao (tiến sĩ, đại học, cao đẳng) và dồn dần xuống phổ thông.
Cách thiết kế như vậy tất yếu dẫn đến kiến thức dạy và học trong nhà trường mang tính hàn lâm, xa rời cuộc sống. Không ít kiến thức học rất khó, mất rất nhiều thời gian và công sức học tập trong trường phổ thông, nhưng ít được sử dụng trong cuộc sống.
Cách thiết kế nội dung theo vòng tròn đồng tâm cũng tạo nên sự trùng lặp, trong đó có nhiều sự trùng lặp biết mà không thể tránh được. Ở một phía khác, với những học sinh giỏi và có dấu hiệu của tài năng, chương trình học hiện nay cũng không phù hợp, vừa nặng do phải học quá nhiều nội dung, vừa nhẹ đối với phần thuộc sở trường và năng khiếu của cá nhân học sinh.
Đó là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng quá tải của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. Nhận thức được việc này, Bộ Giáo dục đã và đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ với các khóa học sinh hiện tại để giảm tải cho các em.
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận trao đổi với VnExpress bên hành lang Quốc hội. Ảnh: Thanh Thanh. |
- Các giải pháp đó là gì, thưa Bộ trưởng?
- Đó là chủ động rà soát, điều chỉnh nội dung chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, loại bỏ những phần trùng lặp, hàn lâm, xa rời thực tế và không phù hợp với trình độ, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.
Bộ giao quyền chủ động và hướng dẫn nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với học sinh, gắn với các di sản văn hóa, lịch sử và thực tiễn địa phương. Đồng thời, hướng dẫn các trường chủ động xây dựng các chủ đề tích hợp, liên môn với những nội dung kiến thức được đề cập đến ở hai hay nhiều môn học theo hướng: chỉ dạy kiến thức đó trong một môn học và bổ sung những kiến thức liên quan đến các môn còn lại. Hoặc tách những kiến thức có liên quan ra khỏi các môn học, xây dựng thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng.
Bộ chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ đổi mới phương pháp dạy học. Để làm được việc này, Bộ đã xây dựng diễn đàn trực tuyến “Trường học kết nối” để tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn trong nhà trường, thực hiện tập huấn và hỗ trợ, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên về đổi mới phương pháp dạy và học. Đồng thời tạo môi trường học tập tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh trong cả nước.
Từng nhà trường áp dụng các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học tiên tiến, yêu cầu học sinh vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống, ví dụ: phương pháp "Bàn tay nặn bột", mô hình trường học mới VNEN, phương pháp dạy Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục...
Ngoài ra, Bộ cũng chỉ đạo thực hiện đổi mới công tác thi, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng chuyển từ chú trọng kiểm tra kết quả ghi nhớ kiến thức cuối kỳ, cuối năm sang kết hợp kết quả đánh giá quá trình học, năng lực vận dụng kiến thức; coi trọng đánh giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học tập, động viên sự cố gắng, tinh thần hứng thú học tập của các em trong quá trình học tập, rèn luyện trong và ngoài nhà trường.
Với các giải pháp này, chương trình giáo dục phổ thông đã được điều chỉnh theo hướng tinh giản, tránh được việc học sinh phải học lại cùng một nội dung kiến thức, gây quá tải; tạo điều kiện cho các trường được chủ động, linh hoạt áp dụng các hình thức tổ chức giáo dục, các phương pháp dạy học tiên tiến, nhờ đó học sinh hứng thú học tập hơn, giảm tải được việc dạy và học xét cả về nội dung kiến thức, tâm lý học sinh.
- Đề án đổi mới mới giáo dục gần đây chỉ nhấn mạnh việc chuyển nền giáo dục chú trọng truyền thụ kiến thức một chiều sang nền giáo dục chú trọng hình thành phẩm chất và kỹ năng người học mà chưa thấy nhắc đến việc giảm tải chương trình, nguyên nhân là gì, thưa Bộ trưởng?
- Trong phạm vi chương trình và sách giáo khoa mới cũng có sự thay đổi lớn và căn bản theo nguyên tắc: Tích hợp cao ở lớp và cấp học dưới; Tự chọn và phân hóa cao ở lớp và cấp học trên. Cách thiết kế này cho phép lựa chọn có chủ đích kiến thức đưa vào nhà trường không phải phụ thuộc vào tầm quan trọng của các môn khoa học, mà là những nội dung phù hợp với lứa tuổi (tâm lý, kỹ năng, nhận thức…) của học sinh, gần gũi với cuộc sống, thiết thực tham gia vào quá trình hình thành phẩm chất và năng lực của người học.
Với chương trình tích hợp này, đến hết trung học cơ sở học sinh đã có đủ kiến thức, phẩm chất và kỹ năng cần thiết để học nghề (phân luồng), sau đó là lập nghiệp. Ở cấp trung học phổ thông (lớp 10, 11, 12), chương trình học và sách giáo khoa sẽ được thiết kế theo hướng phân hóa cao. Học sinh sẽ căn cứ năng lực học tập của mình, lựa chọn các môn học khác nhau thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn hoặc khoa học tự nhiên.
Cách thiết kế như vậy sẽ không tạo sức ép dồn kiến thức khoa học vào nhà trường. Cùng với những đổi mới trong phương pháp dạy và học theo hướng chú trọng phát triển phẩm chất và kỹ năng cho người học, cách thiết kế này sẽ tạo ra khả năng thực tế khắc phục hiện tượng quá tải và dạy thêm học thêm tràn lan hiện nay.
- Đề án đổi mới này học tập kinh nghiệm của những nước nào?
- Quá trình xây dựng đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông lần này, chúng tôi đã tổ chức tổng kết kinh nghiệm xây dựng và phát triển chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam từ trước đến nay ở cả hai miền đất nước, đặc biệt là qua ba cuộc cải cách giáo dục và lần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông năm 2000, đồng thời tham khảo khoảng 40 bộ chương trình, sách giáo khoa của các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới và trong khu vực, trong đó có những nước có nhiều nét tương đồng với văn hóa và lịch sử của Việt Nam.
Cũng phải nói thêm rằng, chúng tôi không chỉ học tập kinh nghiệm đổi mới chương trình và sách giáo khoa các nước đã làm, mà còn quan tâm nghiên cứu xu hướng phát triển giáo dục các nước trong tương lai.
Hoàng Thùy thực hiện