Đọc Trên đường, tập thơ, Trần Anh Thái, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 2004
Như văn hào người Pháp Jean Paul Sartre nói, từ ngữ trong thơ còn là, và chính là, các sự vật. Chúng, bởi thế, có cả bốn chiều: ba không gian + một thời gian. Và tác giả Trần Anh Thái có lẽ rất thích thú với đặc tính này, gọi tên "những bức tường bốn chiều", "khoảng trống bốn chiều"... Những hình ảnh, khái niệm như vậy không xuất hiện nhiều trong tập thơ này, song cùng với một số cấu tạo hình ảnh, từ ngữ khác, nó cho thấy một thao tác căn bản của tác giả đã tạo nên đặc điểm của tập thơ này: Đó là thao tác kết hợp một cái cụ thể với một cái trừu tượng.
Sự kết hợp đó hoàn toàn không phải là mới mẻ trong thơ nói chung. Đây là, nếu có thể khô khan gọi nó như một kỹ thuật, là một kỹ thuật rất cơ bản. Nhưng tùy theo cách sử dụng của mỗi người viết, sự kết hợp đó có thể cho ra một biểu tượng, hay một ẩn dụ tượng hình, một sự gợi ý thông qua một liên tưởng từ hình ảnh tương đồng của câu thơ. Ở đây trong trường hợp của tập Trên đường, Trần Anh Thái sử dụng các kết hợp như vậy hầu như với tất cả các câu thơ, và kết quả là phần trừu tượng trở thành biểu hiện chủ yếu của phong cách tác giả trong tập thơ này, khiến cho tất cả các bài thơ trong tập, đặc biệt là phần II mang tựa đề Trên đường gồm ba liên khúc Ra đi, Trở về, Khúc cuối, có một ý nghĩa tượng trưng rất rõ rệt. Đoạn thơ sau đây (Ra đi, tr. 71) là một trong những đoạn tiêu biểu:
"Không ai đốt lửa trước con đường, chỉ có niềm hy vọng cháy lên. Sức mạnh bàn chân ở nơi sâu thẳm niềm trắc ẩn, ngân nga nơi dấu chân tổ tiên, nơi những câu chuyện buồn không dứt. Đi! Dừng lại là đắm chìm, là hoang mang cay đắng, là hy vọng xa xăm lạnh buốt cõi người. Không có bờ sang vỗ vào đâu?".
Trong một khổ thơ này ta thấy đầy những hình ảnh, từ ngữ tượng trưng: lửa, con đường, sức mạnh, hy vọng, dấu chân, tiếng vọng, cõi người, bờ sóng. Sự kết hợp của chúng với các từ ngữ còn lại, trong âm hưởng cụ thể của diễn ngôn, mang lại trọn vẹn màu sắc tượng trưng cho khổ thơ. Một không khí tượng trưng như vậy khiến cho những con đường, lửa, hy vọng, bờ, sóng được thấy như là những biểu tượng, được trừ xuất khỏi ý nghĩ thông thường vốn có để trở thành những dấu hiệu của một thực tại khác, thuộc về cái tâm linh. Thực ra, ngay trong bố cục các tựa đề của phần II tập thơ này đã mang tính tượng trưng với cặp ra đi - trở về. Việc đặt những tựa đề có ý nghĩa tượng trưng như vậy là việc các nhà thơ hay làm. Nhưng cái phong cách thể hiện qua từng bài thơ và biểu hiện nhất quán trong tập thơ mới là cái khẳng định ý nghĩa tượng trưng đó. Trần Anh Thái trong Trên đường đã làm như vậy. Những hình ảnh, từ ngữ mang tính tượng trưng như chúng tôi vừa dẫn có rất nhiều trong tập thơ này và xuất hiện trong tất cả các bài, với cùng một cách kết hợp và cùng một âm hưởng tương tự của diễn ngôn. Hàng loạt hình ảnh, từ ngữ như: Dòng người đi, đoàn người lầm lũi, ngọn lửa, bóng tối, bóng hình thế kỷ, pho tượng, ngôi mộ cổ, định mệnh, biển, sóng, vô cùng... mang lại ấn tượng về một cảm hứng tượng trưng xuyên suốt tác phẩm.
Từ vựng tượng trưng của tác giả trong tập thơ này một lần nữa tập trung trong bài thơ dài Khúc cuối kết thúc tập thơ. Trong bài thơ đó có thể thấy hầu hết những hình ảnh, từ ngữ tượng trưng - những dấu hiệu - chủ yếu đã làm nên đặc điểm sắc thái của tập thơ. Chúng tôi nhận thấy một trong những hình ảnh, từ ngữ được tác giả lặp lại nhiều nhất là giấc mơ, với chuỗi những biến thể của nó trong những cơn mơ, mộng mị, ẩn hiện, ảo ảnh chập chờn, mơ hồ... Tập hợp những dấu hiệu này đã đưa lại một gợi ý khá rõ: Phần lớn những quang cảnh mà các bài thơ ở đây đề cập đến đều xuất hiện như những giấc mơ. Không phải vì chúng đẹp hay thơ mộng mà vì những quang cảnh ấy hướng vào suy tư, hiện lên như những dấu hiệu đưa dẫn người ta về một thực tại khác thấp thoáng đâu đó bên kia cái hiện tại này - những bóng dáng lớn lao của quá khứ và tương lai. Đồng thời, giấc mơ là một dấu hiệu tượng trưng về điềm báo, mộng báo: Dường như tất cả những sự vật kia nói lên điều gì đó với cái tâm tưởng, cái trầm ngâm, cái suy tư, liên tưởng.
Bên cạnh đó thì giấc mơ và sự lặp lại hình ảnh dòng người đi là một chỉ dẫn về sự hiện hữu của cái cô đơn, một vị tâm trạng cô đơn. Cảm nhận về cái cô đơn này được củng cố bởi sự xuất hiện với tần suất cao những tiếng láy buồn của lầm lũi, lấp sấp, biền biệt, heo hắt... Có thể nói rằng những tiếng láy buồn là một loại "nốt hoa mỹ" đặc trưng cho sự biểu hiện cái cô đơn. Và, sự có mặt trong tất cả các bài thơ ở đây, cái âm thanh văng vẳng của cô đơn này góp phần hoàn tất bức tranh tượng trưng của những thế kỷ cổ điển.
Ở đây hầu như không có một dòng thơ trọn vẹn nào mô tả cái quang cảnh trần tục. Trên bình diện tổng thể, đó là một sự hài hòa về mặt phong cách: cái tượng trưng không dung nạp cái trần tục. Đó là một vị thế đối lập với những cái phàm tục ngồn ngộn, ngổn ngang ở nơi trần thế. Sự đối lập này không trình bày những biểu hiện chối bỏ, mà nó đối lập bằng cách đưa ta vào những dòng mạch của suy tư, bằng cách bày tỏ nỗi khát vọng về một đời sống nội tâm cao quý hơn. Và đó là một nỗi băn khoăn không ngừng nghỉ.
Nguồn: Văn nghệ