Nhà thơ Bế Kiến Quốc. |
Trong Bài không tên số 10 của tập thơ Mãi mãi ngày đầu tiên, ông tâm sự: Sao cứ mong một cái gì hoàn thiện/ Trong cõi đời không thể nào hoàn thiện?/ Sao cứ muốn một điều gì vĩnh cửu/ Trong thế gian không vĩnh cửu bao giờ/ Anh, kẻ suốt đời theo đuổi những giấc mơ.
Nhưng ngay cả khi nhận ra trong cái cõi người không hoàn thiện, không vĩnh cửu ấy, nhà thơ vẫn mong ước: Dù ở đâu qua đêm/ Ta vẫn cần có em/ Ngọn lửa ấm thơm nồng sáng/ Và ta ngồi đốt những đám mây buồn...
Thơ Bế Kiến Quốc không nghiêng hẳn về phía trình bày những khám phá nội tâm, mà luôn có ý hướng sự tìm tòi của mình về phía đời sống dung dị. Ngay từ thời còn là sinh viên khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, Bế Kiến Quốc đã đoạt giải nhì cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ năm 1969. Tuy thành đạt sớm, Kiến Quốc vẫn là người khiêm nhường, lặng lẽ. Anh không thích những tuyên ngôn ồn ào về thơ ca có tính phô trương hình thức mà tự bạch: “Theo tôi, thơ có giá trị là thơ phải nâng cao tâm hồn con người. Những nhà thơ thành công là những nhà thơ nói được tiếng nói của thời đại, của đất nước, chứ không phải nhà thơ có kỹ thuật cao. Và, điều quan trọng là thơ phải luôn luôn hướng về phần sáng của cuộc đời”. Con người Bế Kiến Quốc cũng giống như thơ ông, luôn tin yêu vào cuộc đời đến ngây thơ. Trong nhiều năm, ngôi nhà của vợ chồng ông là nơi lui tới của không ít bạn bè văn chương trên khắp mọi miền đất nước.
Ở những năm cuối đời, Kiến Quốc có mảng thơ thấm tháp nỗi buồn, canh cánh nỗi lo âu và thương cảm đồng loại. Khi viết về họa sĩ Nguyễn Sáng, ông ngưỡng mộ, xót xa một tài năng lớn của hội họa đương đại Việt Nam với cảm giác: chỉ vì mình sống cùng thời với Nguyễn Sáng nên đã góp phần làm cho họa sĩ thêm đơn độc và nghèo khổ: Lẽ ra đã có một buổi chiều/ Được kính cẩn nhường đường cho ông trên hè phố/ Hoặc hơn nữa, được mời ông một ly rược nhỏ/ Để tỏ lòng ngưỡng mộ/ Hoặc hơn nữa, được nói với ông/ Dù thế nào, ông Sáng ơi, ông sẽ sống mãi.
Chùm thơ cuối cùng Bế Kiến Quốc viết trước lúc đi xa là bốn bài về những người lao động từ các miền quê ra Hà Nội kiếm sống. Đây là chùm thơ mà Kiến Quốc tâm đắc nhất, ông viết một mạch một tuần và không sửa chữa nhiều. Với trái tim đồng cảm và nhân hậu, nhà thơ nhập vai những người dân quê chất phác ra phố, làm thuê đủ mọi việc, từ khuân vác đến móc cống, lau nhà, đạp xích lô: Khoẻ như tôi ở đâu cũng thừa/ Thừa sức khoẻ cũng thừa kiên nhẫn/ Dân cửu vạn không được quyền chán nản.
Chính sự đơn giản, chân thực của ngôn ngữ đời thường đã khiến cho chùm thơ này có sức lay động lạ thường, khiến người đọc cảm động, gần gũi đến độ xót xa trước mỗi thân phận. Ông trăn trở tìm ra một hàm lượng ngôn từ tối ưu để diễn đạt những ý tưởng mới, bớt cảm xúc để hướng tới cách thể hiện có vẻ trần trụi, khô khan. Có lẽ đã khá lâu, trong thơ Việt Nam hiện đại mới tái hiện, khắc họa người lao động sinh động và nhân văn đến thế.
(Theo Thanh Niên)