Cơ quan điều tra xác định, tháng 7/2002 Trần Ngọc Hải được giao điều tra một vụ án mua bán trái phép ma túy. Trong quá trình tác nghiệp, Đội trưởng cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng phát hiện Nguyễn Văn Hùng có hành vi liên quan vụ án.
Ngày 16/7/2002, thông qua môi giới của Trần Lê Sơn, Hải "bắn tin" Hùng đang ở trong tầm ngắm của công an, nếu muốn không bị bắt thì phải đưa tiền. Theo lời khai của Sơn, qua trao đổi điện thoại, Hải bảo: "Mày điện cho Hùng nếu muốn "cắt đuôi" thì nộp 30.000 USD". Là kẻ buôn bán ma túy nhiều năm, thấy điều kiện dễ dàng, Hùng và vợ là Phạm Thị Vang chấp nhận. Hai ngày sau, hơn 315 triệu đồng được giao trước cho Hải.
Vợ chồng Hùng cùng Sơn sau đó bị bắt vì tham gia vụ án buôn bán ma túy, và vụ "chạy án" được khai ra. Năm 2004 Hùng bị TAND Hà Nội kết án tử hình, Vang nhận hình phạt chung thân, còn Sơn bị kết án 8 năm. Vào thời điểm này, Sơn nhận hết trách nhiệm về mình, nói rằng Trần Ngọc Hải không liên quan. Mọi việc do anh ta dựng lên để lừa đảo vợ chồng Hùng.
Chỉ sau khi cơ quan điều tra thu được lá thư Sơn gửi từ trại tạm giam cho một phụ nữ, bảo đến nhà Hải đòi lại tiền, anh ta mới khai báo thành khẩn. Trần Ngọc Hải bị triệu tập tới cơ quan điều tra. Viên cảnh sát phủ nhận có liên quan tới vụ việc trên. Tuy nhiên, cùng với chứng cứ do Trưởng phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Hà Nội cung cấp cung cấp, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an khẳng định đủ cơ sở kết luận Trần Ngọc Hải có hành vi nhận hối lộ. Sau 4 năm kể từ khi xảy ra sự việc, tháng 2/2006, Hải bị bắt.
Hôm nay, tại TAND Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố Trần Ngọc Hải theo điều 279 Bộ luật hình sự, tại khoản 4 với khung hình phạt cao nhất có thể lên tới án tử hình. Hành vi của vợ chồng Nguyễn Văn Hùng - Phạm Thị Vang cấu thành tội danh đưa hối lộ, điều 289. Còn Trần Lê Sơn tội làm môi giới hối lộ, điều 290.
Ngày mai, 8/9 phiên tòa xét xử hành vi nhận hối lộ của Trần Ngọc Hải tiếp tục làm việc.
Điều 279: Tội nhận hối lộ
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A của chương này (các tội về tham nhũng), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức
b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
c) Phạm tội nhiều lần
d) Biết rõ của hối lộ là tài sản của nhà nước
đ) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt
e) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng
g) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân, hoặc tử hình:
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Anh Thư