Tôi nhớ một buổi chiều cách đây gần bốn mươi năm, tôi và bà ra Ủy ban huyện làm giấy đăng ký kết hôn. Buổi tối, đi dạo bên nhau trên con đường mòn ở bìa rừng chạy thẳng về trường. Trăng sáng vằng vặc. Hai người cầm tay nhau đứng giữa ngã ba đường đất đỏ vắng lặng, những thửa ruộng bậc thang vừa gặt trơ gốc rạ còn thoang thoảng hương lúa. Chỉ có tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu gọi bạn tình làm vang động cả khu rừng yên tĩnh phía xa xa. Tôi mới ôm chầm lấy bà, xiết chặt và hôn lấy hôn để lên má, lên môi bà. Bà cứ đứng yên cho hôn thoải mái. Đây cũng là lần đầu tiên hai đứa thực sự đụng chạm vào nhau sau một năm tìm hiểu. Trước đấy bà nghiêm lắm. Có bận tôi định thơm trộm một cái thì bà đã phản ứng nhanh hơn điện, quay ngoắt mặt đi; tôi thò tay vào ngực bà định bốc trộm một cái thì bà gạt tay tôi ra và bảo: Từ từ! Bị cụt hứng tôi gắt um: Từ từ đến bao giờ? Yêu mà không sờ thì buồn lắm. Nghe vậy bà mới nhoẻn miệng cười rõ tươi mà bảo, đằng nào chẳng thuộc về nhau, cứ từ từ để dành chuyện ấy cho đêm tân hôn, mới nguyên chẳng sướng hơn à!
Ngày ấy cả xã hội còn nghiêm chỉnh lắm. Hủ hoá là một tội nặng. Đảng viên dính phải tội ấy là mất Đảng, hoặc bị cảnh cáo ghi lý lịch, không có cơ hội thăng tiến. Mới đoàn viên thanh niên, mà đã có "phốt" quan hệ trai gái thiếu đứng đắn thì khó mà được đứng trong đội ngũ của Đảng, bởi bị đánh giá là lãng mạn tiểu tư sản không đáng tin cậy. Sau cưới mà có thai, không đúng chín tháng mười ngày mới đẻ, đẻ sớm từ hai, ba tháng trở lên tức là ăn cơm trước kẻng, cũng vẫn bị bia miệng cười chê. Chúng tôi yêu nhau thể hiện một cách nghiêm chỉnh, khô cứng như thế cũng chẳng phải là trường hợp ngoại lệ. Bà thuộc diện con liệt sĩ được ưu tiên làm việc ngay trên phòng giáo dục huyện. Nhưng là người nhiệt tình, năng nổ thấy ở xã vùng sâu vùng xa này thiếu giáo viên thì xung phong về dạy và gặp tôi ở đó. Ngay cái nhìn đầu tiên, tôi đã mê bà. Trẻ trung, tươi tắn, mây mẩy vậy ai chẳng bị hút hồn. Bà có khuôn mặt trái xoan, làn da trắng hồng, đôi mắt đen lúng liếng tưởng là lẳng mà chẳng lẳng chút nào. Phom người bà thuộc diện chuẩn, cao một mét sáu mươi, thắt đáy lưng ong, mái tóc đen mượt, đã dày lại dài chấm gót, ngày ấy không có cái lệ thi hoa hậu các kiểu như bây giờ, chứ nếu có thì chắc bà cũng phải lọt vào vòng chung kết hoa hậu cỡ ty giáo dục. Lại nói, sau lần ra Ủy ban đăng ký kết hôn, chúng tôi có một tuần chuẩn bị cho đám cưới. Ngày đó thiếu thốn đủ thứ, chạy được chục cân kẹo, bánh quy, tút thuốc lá, cân chè móc câu thật vất vả, mệt mỏi vô cùng, người ta khôi hài: để có "tuần trăng mật", chú rể phải "vỡ mật" thật chẳng ngoa!
Nhưng chú rể là tôi, cô dâu là bà cũng đã biết cách hưởng "tuần trăng mật"một cách tuyệt diệu khác mọi đôi tân hôn trẻ khác. Và quả là hương vị của đêm động phòng hoa chúc ấy đến giờ mỗi khi nghĩ lại tôi vẫn cảm thấy nồng nàn đâu đây. Chả là ngày đó dạy ở trường huyện vùng cao, mỗi khi về thị xã tôi thường quen đi tắt con đường mòn qua một khu vực thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, dân địa phương gọi là đèo Đầu Chó. Đèo chỉ dài khoảng một cây số, nhưng độ dốc cao, mỗi lần phải trèo qua cũng mệt bở hơi tai. Đã đến được đỉnh đèo thì thoả thuê nhìn ngắm đất trời hoang dã, phóng khoáng. Đỉnh đèo đánh dấu bằng một tảng đá bằng phẳng to cỡ một căn nhà, có cái chỏm nhô ra phía vực sâu. Tạo hóa thật kỳ công và khéo tay, tạc nên cái chỏm nhìn từ xa hệt như đầu con chó đang há mõm sủa. Đứng trên mỏm Đầu Chó mà phóng tầm mắt về phía Đông sẽ thấy một thảo nguyên phẳng lỳ, xa xa nổi lên những dải núi xanh thẫm uốn lượn như dải lụa. Phía ngược lại hướng Tây, nhìn xuống chân mình là một vực sâu hàng dăm chục mét, có dòng sông Uyển đang lặng lờ chảy về phương Bắc. Tôi liền kể sơ qua tuyệt tác ấy của thiên nhiên với vị hôn thê, nghe bùi tai nàng cũng thích thú muốn được đến chiêm ngưỡng, như một món quà bất ngờ tôi tặng nàng trước ngày cưới. Tôi đã lường hết mọi chuyện, nhanh chóng chuẩn bị kỹ về hậu cần. Tống vào ba lô to cả tấm vải dù chiến lợi phẩm chiến dịch Điện Biên Phủ mà cha tôi dạo ấy đi dân công hoả tuyến có được. Rồi chăn gối, tấm vải ni lông cùng cơm nắm, hăng gô đựng thịt gà rang, ống nước...
Chúng tôi khởi hành từ trường vào buổi trưa, chiều tà thì đến đỉnh Đầu Chó. Được đi bên nàng quên hết mọi mệt nhọc, còn nàng cũng vậy, vui vẻ và đã chứng tỏ đôi chân trèo núi dẻo dai lạ thường. Đến nơi, chúng tôi nhanh nhẹn trải tấm ni lông, cùng nhau đóng cọc căng lều. Xong xuôi. Vứt mọi thứ đấy, tôi ôm chầm lấy nàng và hôn tới tấp lên bất cứ chỗ nào trên người nàng. Tôi bảo, giờ có hai đứa ở nơi cùng trời cuối đất này, phải "nuy" ngắm nhau mới sướng. Nàng nguýt dài: Chỉ được cái lắm sáng kiến! Chúng tôi nhanh chóng cởi bỏ tất, không còn mảnh vải nào trên người. Thân thể nàng phô ra trong ráng chiều, mầu da thịt trắng ngần phút chốc được nhuộm ánh hoàng hôn trở nên phơn phớt hồng thật quyến rũ, huyền ảo không ngòi bút nào tả xiết. Vẻ mặt nàng ngời ngời hạnh phúc. Bầu vú của nàng nây nẩy đôi núm đỏ chót, đầu ti còn bé như hạt đỗ mời chào trước tôi cái tuyệt mỹ của kỳ công tạo hoá. Mông nàng mẩy mà tròn gọn. Làm da nàng mát rượi, mịn như nhung. Tôi nhanh như chảo chớp úp cả bàn tay nghịch ngợm vào chỗ kín giữa hai khe đùi nàng, cảm nhận có dòng nước nong nóng trong ấy đang rỉ ra các ngón tay mình. Chúng tôi cứ thế đứng giữa đất trời ép chặt vào nhau không biết đã bao lâu. Rồi, cả hai trong tư thế ghì xiết cùng nằm xoả ra trên tấm ni lon mỏng và phút chốc tôi vật ngửa nàng, tuân theo cái bản năng sinh tồn của loài người từ thủa hồng hoang, thúc bừa xuống mà không hy vọng trúng được mục tiêu. (...) Cơn say tình giảm độ nhiệt chút ít, khi nàng chợt vặn mình hất nhẹ tôi xuống và nhỏm dậy lấy từ dưới mông ra cái khăn mùi xoa trắng tinh có thấm những giọt máu tươi, đưa tôi xem. Và nàng nhìn tôi mỉm cười mãn nguyện.Tôi gắn chặt môi hôn môi nàng thay cho lời cảm ơn về việc nàng đã dành trọn vẹn trinh tiết cho tôi.
Phía vực sâu, mặt trời rực như cục than đang nguội dần từ từ lặn xuống, khúc sông Uyển đang màu đỏ tía chuyển sang tím thẫm. Đó là khi màn đêm buông xuống, cũng là khi tôi và nàng đã no nê trong cuộc khảo thí đầu tiên về nhau. Tiếp đến, cả hai trở dậy để no bụng. Đều ăn rất ngon miệng, hết sạch hai nắm cơm, hăng gô thịt gà và uống gọn nửa ống nước trong khúc nứa ngộ. Chẳng mấy chốc, sương mù ào ạt vây quanh lều vải dù, ngoài trời đã khá lạnh, đem cái tê buốt vùng núi đá lọt vào lều. Nhưng chúng tôi chẳng thấy chút lạnh nào, lại nhanh chóng quấn chặt vào nhau, sưởi ấm cho nhau trong cái chăn đơn mỏng. Động phòng hoa chúc sớm hai ngày đấy nhá, nàng xỉa ngón trỏ vào trán tôi, thì thào: Đáng ghét, háu ăn! Câu nói ấy chỉ khơi gợi bắt đầu cuộc "ăn" ngấu nghiến mới. "Bát" đầu đến "bát" thứ hai, thứ ba cứ chậm dần, kéo dài đến tận "bát" thứ năm mới thực sự là "no". Tất nhiên, lần này có khác lần trước, đó là vừa "ăn" vừa hét lên cho thoả, cho kinh động cả trời đất. Khi đã khản cổ, mỏi miệng không kêu được thành tiếng thì rên rỉ, như là đang thi giọng với lũ dế đồng cỏ. Lại nghe tiếng cái máng nước chảy róc rách cạnh lều, tôi mới vục dậy bảo: Bây giờ phải nhóm lửa đun nước trong hăng gô để sưởi, vừa có nước ấm để rửa. Cứ thế, chúng tôi được sống khoả thân bên nhau giữa thiên đường trên mặt đất trong nhiều giờ liền, đến tận sáng bạch của ngày hôm sau. Còn ai đến đấy để mà quấy rầy chúng tôi nữa!
Chỉ hai ngày sau đó chúng tôi mới trên danh nghĩa hưởng đêm tân hôn, cũng vẫn tràn đầy cái sự đắm say trong nhục dục. Nhưng lạ là, dẫu tôi đã mấy lần cố ý nghển đầu, nở to cánh mũi mà không sao tìm lại được thứ hương nhài phảng phất quanh mình như đêm hôm trước trong cái lều vải dù ở mỏm Đầu Chó, đến nỗi nàng bắt gặp sự thoáng mất tập trung như thế, thì dúi đầu tôi xuống ngực nàng, cắn nhẹ vào vành tai tôi mà bảo: Tiếp nữa đi con cún háu ăn của em! Khi đã lấy nhau rồi, bà lại tề gia nội trợ, chiều chồng thương con chẳng làm điều gì khiến tôi phải bực mình cả. Có lần bà còn nửa đùa nửa thật bảo: Con cái trưởng thành, cháu nội ngoại đủ cả, tôi mãn nguyện rồi, cho ông thoải mái. Cũng lại có lần nhân tivi đang chiếu phim tình cảm của Hàn Quốc, có cảnh chồng đi ngoại tình, vợ bắt gặp, hai bên cắn xé nhau, bà quay sang tôi bảo: Nếu ông là ông kia, tôi chả thèm phải làm thế, miễn là đừng về nhà cáu cẳn, ruồng rẫy vợ con là được. Tôi cười hỏi lại: Thật nhá? Bà chỉ cười và bảo im cho người ta xem tiếp. Vậy mà sướng quá hoá rồ, sau đó tôi làm thật, bà có lẽ cũng xử sự thật như câu nói nửa đùa nửa thật hôm ấy. Tôi luôn thầm biết ơn và cảm phục sự thoáng của bà!
Nhưng sự đời đâu đơn giản như ý nghĩ nông nổi ban đầu. Có phải tôi đã phản bội bà khi tôi "đi hoang" chỉ vì muốn thoả mãn dục tính một cách đơn thuần, còn sự "thoáng" kia của bà lại là thể hiện nỗi thờ ơ, tẻ nhạt với chồng, bà đã dành tình cảm sâu kín cho người khác? Có một lần, anh bạn Văn Long, đồng nghiệp người Hà Nội gốc gặp tôi, bảo: Mấy lần mình gặp bà xã cậu, cứ đi tập Thái cực quyền về là ngồi trong quán cà phê Tia Sáng, chuyện trò say sưa với ông Thượng tá cựu chiến binh. Thông báo của anh bạn đã từng đưa tôi "vào đời" chỉ có vậy, lúc đó cũng chẳng làm tôi mấy quan tâm. Từ ngày nghỉ hưu bà ấy chăm tập, bạn lớp Thái cực quyền có đến hàng trăm người, toàn các vị hưu với nhau cả. Rảnh việc nhà, hoàn thành nghĩa vụ với con cháu, đã đến lúc bà cần được dành trọn thời gian cho các thú vui của riêng mình. Thế rồi hôm mới đây, tôi ở trường về qua quán Tia Sáng, tình cờ nghe được giọng cười của bà vọng ra. Giọng cười quen thuộc vẫn hồn nhiên, trẻ trung như dạo nào, đến già hầu như vẫn không thay đổi. Tôi mới dừng xe đi vào, thấy ông Thượng tá và bà đang ngồi đối diện nhau, đều mặc đồng phục của hội Thái cực quyền. Vừa thấy tôi, ông Thượng tá liền vui vẻ đứng dậy kéo cái ghế khác cho tôi ngồi. Ông còn hỏi sao thầy về sớm hơn mọi lần? Chúng tôi không lạ gì nhau, đứa cháu đích tôn của ông đang học lớp mười một trường tôi, thỉnh thoảng ông có đến thăm nhà tôi như các phụ huynh khác tìm hiểu sự học hành của con cháu. Bà xã lúc ấy vẻ mặt vẫn còn vui lắm, liền bảo với tôi là không ngờ bác cựu chiến binh làm thơ hay thế, anh là thầy dạy văn thử nghe văn bác ấy xem có đáng điểm chín, điểm mười không nào. Thế là ông Thượng tá liền chìa trước mặt tôi quyển thơ khá dầy bảo, vừa mới ra lò đấy, thầy có thích thưởng thức thơ trữ tình không? Thời nay hình như là thời của sự loạn thơ ca. Tổ hưu trí nào chẳng có câu lạc bộ thơ, các phường, quận còn liên kết lại thành hội thơ, trường phái thơ, định kỳ tụ tập, đọc thơ, ngâm thơ tán tụng nhau đến tận mây xanh. Tôi cầm tập thơ mới toe, liếc mắt qua đã có đánh giá: tập này in ấn nghiêm chỉnh, có giấy phép, có nhà xuất bản hẳn hoi, chứ hầu hết các tập khác các cụ tặng tôi là ruột phôtô cóppi, bìa tự trang trí rồi đóng thành tập, đều một giọng nôm na cây nhà lá vườn cả. Tuy tôi dạy văn đã bao năm, rành rẽ mẹo luật các loại thơ, song lại không khi nào làm thơ, cũng chẳng bao giờ có hứng thú bình thơ khi trà dư tửu hậu với bạn bè. Và trong nhà cũng chưa bao giờ tôi và bà xã nói chuyện với nhau về thơ phú cả. Hoá ra đến hôm nay tôi mới biết bà xã mình thích thơ và có khả năng thẩm thơ đến vậy. Để chiều lòng hai người, tôi cũng nghe nhà thơ "vườn" đọc qua loa vài bài. Đúng là thơ con cóc, tôi nghe câu được câu chăng và thầm nghĩ vậy, song bên ngoài thì khen nức nở, nào thơ bác thật súc tích, vần điệu mượt mà; nào thơ bác triết lý sâu xa, ý tại ngôn ngoại. Tôi còn nói một cách đãi bôi rằng: Không biết bác đã gửi bài này cho toà báo chưa, chứ loại thơ trữ tình vào dịp mùng tám tháng Ba sắp tới của chị em thì các báo vồ lấy để đăng ấy chứ. Ông Thượng tá phấn khởi ra mặt, bất chấp lời khen của tôi là chân thành hay giả dối, rút bút ghi tặng luôn tôi một cuốn. Sau đó tôi và bà xã cùng về và việc đầu tiên là tôi quẳng cuốn thơ của vị "thi hào" kia vào góc tủ sách.
Những sự việc xảy đến, công an gọi tôi ra thẩm vấn, dư luận ồn ào và trong những ngày chộn rộn bất lợi cho tôi như thế, tôi thấy bà tỏ ra bình thản, vẫn đến hội Thái cực quyền, hết giờ bà vẫn vào quán Tia Sáng ngồi với ông nhà thơ Thượng tá cựu chiến binh. Thế rồi trong lúc buồn mà chẳng biết phải làm gì, tôi mới giở cuốn thơ "con cóc" kia ra đọc, đọc một cách kỹ càng từng bài. Hầu như toàn bộ là thơ tình, thơ thế sự, bài nào cũng đá vào mấy câu "em em, anh anh" cả. Dù không phải người sành thơ, thích thẩm thơ, song tôi cũng phải công nhận một sự thật là thơ ông ấy có chất, vượt lên hẳn những thứ thơ "vườn", thơ "xóm" tôi vẫn được tặng. Một người đã ở tuổi sáu mươi, cả đời đi chinh chiến lại có một tâm hồn trẻ trung lãng mạn đến vậy! Và tôi bỗng giật mình khi cảm thấy một cách chắc chắn rằng: hầu hết các bài thơ tình rất sâu đậm, lưu luyến kia là để tặng cho bà vợ tôi. Sự mẫn cảm của người chồng, bao hàm trong đó cả sự ghen tuông thường tình đã mách bảo tôi điều đó. Còn có bằng chứng hiển nhiên cho điều tôi nghi vấn, đơn giản chỉ vì có những bài thơ tình nhắc đến những đồ vật hiện hữu trong nhà tôi, như bức tranh phiên bản "Dòng suối mùa xuân" của danh hoạ Nga Levitan do chính tôi mua ở hiệu sách thị xã từ thời còn bao cấp; con búp bê mắt xanh, tóc vàng đặt trong tủ kính của cô con gái đầu hồi nó năm tuổi do bà mua tặng nó trong chuyến cùng đoàn của Bộ Giáo dục sang thăm Liên Xô cách đây đã gần ba mươi năm (Bà từng là chiến sĩ thi đua toàn ngành Giáo dục, được Bằng khen của Bộ)...Chỉ có tình cảm thực mới làm được những bài thơ tình tứ lai láng đến vậy. Đó là tình yêu đơn phương hay song phương? Hay đó chỉ là một thứ tình tang trong tưởng tượng, người viết có cái cớ để mà làm thơ? Dù thế nào thì tình cảm của hai người cũng là trên mức bình thường rồi.
Khi bà đi tập Thái cực quyền về, tôi mới hỏi một câu khá ngớ ngẩn: Bà lại từ quán Tia Sáng về à? Bà lại nhìn tôi với ánh mắt bình thản, gật đầu và đi ngay vào buồng thay bộ quần áo tập. Trở ra, bà không nói gì thêm, tôi cũng không hỏi gì thêm nữa.
Nhìn bà lẳng lặng ra vườn nhổ cỏ, bỗng bừng dậy trong tôi nỗi ghen tuông pha lẫn sự thất vọng mà không muốn biểu lộ ra ngoài. Chưa bao giờ tôi có cái cảm giác bức bối, khó chịu đến vậy. Phải chăng từ lâu trong mắt bà, tôi đã là người khách lạ trong căn nhà này?
Phạm Quang Đẩu
Còn tiếp...
(Tiểu thuyết "Đánh đu cùng số phận" của Phạm Quang Đẩu, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2012)