Theo quy trình, ngân hàng cho công ty chứng khoán vay, công ty chứng khoán có tiền mới cấp margin cho khách hàng, nếu công ty chứng khoán không có tài sản đảm bảo sẽ bị loại ngay từ đầu nếu có ý định vay vốn.
Lãi suất giao dịch ký quỹ (margin) tại các công ty chứng khoán đang dao động trong khoảng 18-20% một năm, tức 0,05-0,055% một ngày, trong khi lãi suất của ngân hàng cho các công ty chứng khoán vay cũng xoay quanh 18% một năm. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến lãi suất margin rất khó giảm mạnh theo kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư.
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó tổng giám đốc công ty chứng khoán Quốc Tế, chỉ ra một thực trạng: ngân hàng đang rất dè dặt trong việc cấp vốn cho công ty chứng khoán với lý do “chứng khoán rất rủi ro”. Trong khi vài năm trước các ngân hàng cho công ty chứng khoán vay khá dễ dàng, thậm chí vay tín chấp nhưng nay luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo. Mấu chốt của vấn đề nằm ở tài sản đảm bảo và quản lý rủi ro.
Theo quy trình, ngân hàng cho công ty chứng khoán vay, công ty chứng khoán có tiền mới cấp margin cho khách hàng, nếu công ty chứng khoán không có tài sản đảm bảo sẽ bị “out” ngay từ đầu nếu có ý định vay vốn. Theo đó, tài sản đảm bảo của công ty chứng khoán thông thường là cổ phiếu, phần lớn là cổ phiếu tự doanh. Cũng có trường hợp công ty chứng khoán không tự doanh nhưng với uy tín lớn, thông qua thị phần và tiền ký quỹ của khách hàng nên được ưu ái vay tín chấp nhưng rất ít ỏi.
Vậy những công ty chứng khoán không tự doanh, thị phần trung bình lấy tài sản ở đâu đảm bảo? Sẽ có một số giải pháp như công ty chứng khoán mua vào cổ phiếu bằng tài khoản tự doanh (nếu được phép thực hiện nghiệp vụ này), hoặc vay từ các cổ đông lớn, thậm chí vay nóng. Nhưng nếu xảy ra các trường hợp này, việc nhận diện vốn vay của công ty chứng khoán còn phức tạp hơn.
Khi nói nợ xấu bất động sản, nhiều người thường nghĩ ngay đến việc các chủ đầu tư nợ ngân hàng, còn nói nợ xấu chứng khoán là nghĩ đến việc khách hàng nợ công ty chứng khoán. Điều đó cho thấy các ngân hàng vẫn quản dòng vốn của mình tại các công ty chứng khoán khá tốt.
![]() |
'Cắt cổ' nhau thông qua lãi suất margin. Ảnh minh họa. |
Gần đây, con số 485 tỷ đồng nợ xấu cho vay chứng khoán đã được công bố, một con số không quá lớn nếu so với nợ xấu bất động sản lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng, đã phần nào minh chứng cho vấn đề trên. Vậy tại sao các ngân hàng vẫn rất dè dặt với công ty chứng khoán.
Giả sử ngân hàng cho công ty chứng khoán vay, sau đó công ty chứng khoán cấp margin cho khách hàng và ngân hàng quản được khách hàng của công ty chứng khoán mua cổ phiếu nào, rủi ro ra sao, lúc này ngân hàng sẽ không phải yêu cầu công ty chứng khoán có tài sản đảm bảo. TS. Nguyễn Anh Tuấn cho rằng mấu chốt ở chỗ các ngân hàng chưa thể hoặc chưa muốn làm việc này.
Điều dễ thấy là ngân hàng và công ty chứng khoán nếu kết hợp để quản lý, tách bạch tài khoản tiền của ngân hàng đầu tư, việc quản lý danh mục chứng khoán của khách hàng không phải là thách thức lớn. Hiện có công ty chứng khoán chưa thể triển khai margin vẫn kết hợp với ngân hàng để cung cấp sản phẩm cầm cố chứng khoán cho khách hàng. Cụ thể hơn, việc cầm cố do ngân hàng thực hiện chứ không phải công ty chứng khoán, chứng tỏ ngân hàng vẫn có thể theo sát danh đầu tư.
Về việc lãi suất ngân hàng cho công ty chứng khoán vay (đầu vào) gần bằng lãi suất công ty chứng khoán cấp margin cho khách hàng (đầu ra), liệu công ty chứng khoán nào có thể xoay sở? Thời điểm khó khăn, mục tiêu tồn tại là quan trọng nên ngân hàngiều công ty chứng khoán cũng chỉ cần có khách, từ đó lấy nguồn này đắp cho nguồn kia.
Chẳng hạn margin không lãi nhiều, nhưng khách hàng sử dụng margin lớn có thể thu được từ phí giao dịch, sau đó kết hợp thêm với tiền lãi từ cho vay ứng trước. Điểm kế tiếp là mức lãi suất đưa ra khoảng 18-19% một năm là giữa ngân hàng và công ty chứng khoán thông thường, còn trong trường hợp ngân hàng và công ty chứng khoán có quan hệ thân thiết ngân hàngư ngân hàng mẹ và công ty chứng khoán.
Trường hợp công ty chứng khoán kết hợp với một ngân hàng ruột, có thể ngân hàng đề xuất một bộ phận nghiên cứu, xem xét những cổ phiếu mà công ty chứng khoán cấp margin cho khách hàng giao dịch. Đi theo hướng này không đơn giản vì rất nhiều lý do như ngân hàng cùng lúc không thể kết thân với quá nhiều công ty chứng khoán, trong khi công ty chứng khoán chơi thân được với ngân hàng ít ra cũng phải có số… Vậy tại sao các ngân hàng và công ty chứng khoán khác nhau không thể dựa vào đây để thiết lập những sự kiểm soát chặt chẽ hơn?
Một trường hợp khác mà công ty chứng khoán vẫn có thể sống khỏe, thậm chí lãi suất bao nhiêu vẫn có lãi, đó là công ty chứng khoán sử dụng vốn tự có để cấp cho khách hàng. Không phải chịu chi phí lãi vay, các công ty chứng khoán này có thể cung dung cấp vốn cho khách hàng.
Ở đây sẽ có câu hỏi để nhận diện một số ít công ty chứng khoán thuộc nhóm này, lãi suất margin của nhóm này cũng không hề rẻ hơn so với mức lãi suất chung trên thị trường, trong khi về lý mà nói nhóm này phải đi đầu trong thực hiện giảm lãi suất margin. Có khá nhiều lý do được đưa ra, chẳng hạn, cho vay margin vẫn quá rủi ro; giờ đây công ty chứng khoán chỉ lấy hoạt động môi giới làm cốt lõi, không thu được thêm nguồn nào khác nên không thể hạ giá…
Cũng có ý kiến cho rằng nếu hạ lãi suất, công ty chứng khoán có thể gặp điều tiếng phá giá và không tốt trong kinh doanh. Chừng nào công ty chứng khoán chỉ dựa vào những điểm lợi thế, khác biệt của mình để triển khai hoạt động margin, khi đó vẫn còn một bộ phận khách hàng, thị trường, thậm chí là ngân hàng chưa được hưởng lợi.
Nếu vì ngại rủi ro, ngân hàng “cắt cổ” công ty chứng khoán, công ty chứng khoán lại “cắt cổ” khách hàng và hậu quả là khách hàng ngại vay, theo đó nguồn thu của cả công ty chứng khoán và ngân hàng đều bị giảm.
(Theo Sài Gòn đầu tư tài chính)