Bạn soạn thảo đưa ra 2 tên gọi của luật là: Luật về người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và Luật về người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Dự kiến, tháng 3/2006 dự luật sẽ được trình Chính phủ để đến tháng 5/2006 trình Quốc hội cho ý kiến.
Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hằng khẳng định tại cuộc họp đầu tiên của Ban soạn thảo dự luật về xuất khẩu lao động tổ chức ngày 27/5: Quan điểm chính để xây dựng luật là coi xuất khẩu lao động là chiến lược, chương trình lớn nhằm phát huy nguồn lực lao động của đất nước.
Lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia. |
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động từ năm 1980. Trong giai đoạn 1980-1990, với cơ chế Nhà nước trực tiếp ký kết, tổ chức đưa lao động, chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô cũ, Đức, Tiệp Khắc và Bungari), Việt Nam đã xuất khẩu 300.000 lao động.
Từ năm 1991, cơ chế xuất khẩu lao động được đổi mới, các tổ chức kinh tế được Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng ký với nước ngoài. Cơ chế thông thoáng này đã làm tăng số người đi xuất khẩu, năm 2002 là 46.120, năm 2003 trên 75.000, năm 2004 là 67.440. Hiện, mỗi năm lao động xuất khẩu gửi về khoảng 1,5 tỷ USD.
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng như các doanh nghiệp (hiện có khoảng 150), xuất khẩu lao động đang tăng trưởng mạnh, nhưng chưa có một hàng rào pháp lý đủ mạnh để quản lý lĩnh vực này. Hiện văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này chỉ vẻn vẹn 4 điều (18, 134, 135, 184) của Bộ luật lao động, Nghị định 81 ngày 17/7/2003 hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động và một số thông tư. Trong khi lĩnh vực này có quá nhiều vấn đề, nổi cộm là tình trạng lừa đảo xuất khẩu lao động, tỷ lệ bỏ trốn của lao động ngày càng tăng.
Như Trang