- Hơn 10 năm nay TP HCM vẫn loay hoay với đề án "lệch giờ, lệch ca". Hiện tại Hà Nội đã có phương án đổi giờ, giảm ùn tắc, quan điểm của ông về đề án này như thế nào?
- Chủ trương học lệch giờ, làm lệch ca đã được TP HCM nghiên cứu từ năm 2001, đề xuất từ năm 2003 và được bàn đến năm 2007. Các sở ngành liên quan đã mất nhiều năm để xây dựng đề án, hội thảo, lấy ý kiến… Đề án cũng đã được trình HĐND thành phố. Tuy không được thông qua do còn có quá nhiều ý kiến không đồng tình rằng nếu áp dụng sẽ làm đảo lộn cuộc sống của người dân, nhưng lâu nay thành phố đã sắp xếp lệch giờ ở một số khu công nghiệp, từng cụm trường học... để hạn chế mật độ xe.
Việc bố trí lệch ca, lệch giờ chỉ là một trong muôn nghìn giải pháp, chứ không phải là duy nhất và quyết định cho vấn đề giảm ùn tắc giao thông. Và TP HCM chắc chắn không làm giống như Hà Nội đang làm. Cụ thể trong phương án phải chú ý đến đặc điểm cấu trúc không gian, mặt bằng địa chất và mật độ dân cư ở TP HCM có những đặc trưng khác Hà Nội. Ví dụ, TP HCM có ít cơ quan trung ương, còn ở Hà Nội ngược lại.
Thực tế hiện nay, cha mẹ thường xuyên đưa đón con đi học nên việc bố trí lệch giờ học, giờ làm chưa thể mang lại kết quả nhiều trong việc giảm ùn tắc giao thông. Trước cổng trường, phụ huynh thường xuyên đậu xe tràn lan cả dưới lòng đường gây cản trở người đi lại.
Ông Nguyễn Thành Tài, cố vấn giao thông cho UBND thành phố, nguyên Phó chủ tịch thường trực UBND TP HCM. Ảnh: Tá Lâm. |
- Chỉ còn vài ngày nữa là đến hạn phải báo cáo Chính phủ phương án đổi giờ học, giờ làm, TP HCM đã có phương án như thế nào, thưa ông?
- Hiện tại dự thảo về phương án đổi giờ học, giờ làm đã có nhưng UBND thành phố chưa đồng ý, bởi còn chung chung, chưa cụ thể và nhiều điểm chưa đánh giá được tình hình ùn tắc hiện tại.
Phương án lệch ca, lệch giờ mới sẽ được chỉnh sửa và có bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay dựa trên cơ sở đề xuất của UBND thành phố năm 2007.
- Ông đánh giá như thế nào về ùn tắc giao thông trên địa bàn TP HCM hiện nay?
- Từ sau năm 1975, TP HCM chưa làm tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, quản lý phát triển không gian đô thị, quản lý phát triển hệ thống hạ tầng giao thông... Xa hơn một chút, từ năm 1940 cho đến năm 1990, thành phố vẫn trong tình trạng thiếu quy hoạch. Khi đã có quy hoạch từ năm 1993 thì gặp phải vấn đề bất cập. Từ một thành phố có số dân non một triệu người tăng lên hơn 7 triệu, chưa kể 1,5 triệu người vãng lai như hiện nay thì ùn tắc giao thông là điều không tránh khỏi.
Trên địa bàn có khoảng 3.600 tuyến đường với tổng diện tích mặt đường gần 26 triệu m2, nhưng số đường có bề rộng nhỏ hơn 7 m chiếm đến 69,3%. Mật độ đường giao thông so với diện tích thành phố chỉ đạt khoảng 1,9 km/km2, quỹ đất giao thông mới chỉ đạt khoảng 4,8%, như thế là quá thấp so với tiêu chuẩn đô thị 22-24%.
Các loại hình dịch vụ vận chuyển hành khách công cộng, nhất là xe buýt tuy đã được chú trọng phát triển nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của người dân thành phố. Tỷ lệ đáp ứng chỉ đạt 7,8% là quá thấp. Ngoài ra, các loại hình vận chuyển hành khách khối lượng lớn như tàu điện ngầm, xe điện mặt đất... chưa được xây dựng xong.
- Để hạn chống ùn tắc giao thông, theo ông, TP HCM cần có biện pháp căn cơ thế nào?
- Ùn tắc giao thông là vấn đề chung của mọi đô thị lớn. Cùng với các giải pháp trong xây dựng, nếu không làm tốt quy hoạch không gian đô thị, hệ thống hạ tầng... một cách đồng bộ thì ùn tắc sẽ song hành với sự phát triển kinh tế xã hội.
Thứ nhất phải xem chống ùn tắc giao thông là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Kinh nghiệm cho thấy, ngành nào mà được Đảng bộ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chỉ đạo, thường xuyên theo dõi nhắc nhở... thì ngành đó được cải thiện và duy trì tốt.
Sau đó, kiên quyết chấn chỉnh trật tự đô thị, lập lại trật tự lòng lề đường, nhanh chóng khắc phục ngay những bất cập của hệ thống trạm dừng, nhà chờ xe buýt có nguy cơ dẫn đến ùn tắc giao thông.
Tiếp đó, thành phố cần chỉ đạo các trường học sắp xếp mở cửa cho phụ huynh đưa xe vào trong sân trường khi đưa đón con đi học. Nơi nào không có sân trường rộng thì phối hợp với chính quyền địa phương để tìm nơi để xe.
Tất nhiên, ngoài các giải pháp đó thì việc tăng cường công tác tuyên truyền vận động người dân thực hiện văn hóa giao thông, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình giao thông, hình thành đô thị vệ tinh... cũng phải được chú trọng.
Nhiều xe hơi và xe máy đậu trên đường trước cổng trường mầm non gây ùn tắc cục bộ trên đường Nguyễn Đình Chiểu (quận 3). Ảnh: Tá Lâm. |
- Quan điểm của ông trong vấn đề hạn chế phương tiện cá nhân được Bộ trưởng Đinh La Thăng đưa ra?
- Người dân thích "sử dụng xe cá nhân, lười đi bộ" đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen, muốn thay đổi cũng không phải dễ dàng. Khi đã hạn chế xe cá nhân, muốn hay không thì người dân, cán bộ công nhân viên cũng phải đi bộ từ trạm xe buýt đến cơ quan làm việc.
Hiện nay, việc hạn chế xe cá nhân bằng vận động thuyết phục là chính. Cần phải có một chế tài đủ mạnh để cưỡng chế mới mong đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô phục vụ của mạng lưới vận tải hành khách công cộng, có chính sách kinh tế và biện pháp hành chính phù hợp đối với người sử dụng phương tiện cá nhân... Một khi sử dụng phương tiện giao thông công cộng an toàn, đúng giờ, tiện lợi và chi phí ít tốn kém hơn thì không ai muốn chen chúc lái xe trên đường.
Tùy đặc điểm tình hình của mỗi thành phố, việc hạn chế lưu thông ôtô trước hay xe máy trước phải được nghiên cứu thực hiện sao cho đồng bộ, hài hòa.
Ông Nguyễn Thành Tài cho rằng, những quyết định của Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng về hạn chế xe cá nhân, bố trí lệch giờ làm giờ học, vận động và yêu cầu cán bộ đi làm bằng xe buýt... đã được TP HCM nghiên cứu áp dụng. Vấn đề nằm ở chỗ phải có bước đi phù hợp với từng đô thị và có kế hoạch tuyên truyền vận động sự đồng tình của người dân. |
Tá Lâm thực hiện