Ngày 18/8, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam giới thiệu, phát hành các bộ sách trọng tâm về lịch sử, văn hoá, biển đảo. Đồ sộ và gây chú ý nhất là bộ Lịch sử Việt Nam bao quát nền lịch sử nước ta từ khởi thuỷ đến năm 2000 do Viện Sử học Việt Nam biên soạn, trên cơ sở Chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp Bộ.
PGS.TS Trần Đức Cường, tổng chủ biên bộ Lịch sử Việt Nam. Ảnh: H.P. |
Chia sẻ với báo giới bên lề buổi giới thiệu, PGS TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách chia sẻ đây là tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ sử học. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử 15 tập, dày gần 10.000 trang này.
"Đây là bộ thông sử quy mô chưa từng có từ trước đến nay ở Việt Nam", ông Cường khẳng định và cho biết bộ sách tiếp cận đa diện hơn các nhân vật, đưa vào nhiều nội dung mới như đánh giá khách quan công trạng của nhà Mạc, nhà Nguyễn, nói về chiến tranh biên giới Việt - Trung...
Đưa chiến tranh biên giới phía Bắc vào bộ sử mới
Theo PGS Cường, bộ sách đã nói rõ nhiều vấn đề lịch sử còn "khoảng trống". Trong tập 14, từ trang 351 đến 359 viết rõ về "quan hệ với Trung Quốc và cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam ở biên giới phía Bắc".
Nội dung tóm lược từ mối quan hệ Việt - Trung sau năm 1975, những căng thẳng dẫn đến cuộc chiến nổ ra sáng 17/2/1979. Bộ sử đã gọi đích danh đó là "một cuộc chiến tranh xâm lược" trên toàn tuyến biên giới từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Số liệu được đề cập rõ ràng gồm số quân Trung Quốc, số xe tăng, đại bác bị dân quân Việt Nam tiêu diệt...
"Chúng tôi gọi rõ đó là một cuộc chiến tranh xâm lược, cho quân tiến vào sâu trong lãnh thổ nước khác 30 km, 50 km đánh phá, không phải xâm lược thì gọi là gì?", ông nói.
Có một điều nữa, cuộc chiến tranh ấy không chỉ gói gọn trong khoảng tháng 2/1979 mà kéo dài. Cán bộ chiến sĩ Việt Nam còn phải hy sinh nhiều xương máu để đến đầu thập niên 90 mới có hòa bình tương đối ở biên giới phía Bắc.
Về cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, ông Cường cho biết nội dung đề cập đến sau năm 1975, khi Việt Nam thống nhất đất nước thì tập đoàn Pol Pot đánh sang. Quân đội Việt Nam đã chiến đấu bảo vệ biên giới đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế, cử quân tình nguyện sang giúp Campuchia đánh tan quân diệt chủng, giải phóng đất nước chùa tháp và sau đó lại bàn giao lại cho họ. Điều đó rất rõ ràng.
Không gọi là "nguỵ quân, nguỵ quyền"
PGS Cường cho rằng, vấn đề Việt Nam Cộng hoà trong các bộ sử tới sẽ phải nêu rõ hơn, khi đây là một thực thể tồn tại ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm. Có một sự gối nhau khi năm 1954 có thể chế nữa gọi là Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm truất Bảo Đại để làm quốc trưởng, rồi trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống...
Thời gian trước, nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, nhiều người vẫn quen gọi là nguỵ quân, nguỵ quyền. Nhưng trong bộ sách gọi trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Theo ông Cường, lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận.
Nhìn nhận công trạng nhà Mạc, chúa Nguyễn
Vị tổng chủ biên cho hay, bộ sử đã đánh giá đầy đủ, khách quan trung thực hơn một số triều đại phong kiến Việt Nam, nhìn nhận đúng công lao của nhà Mạc, nhà Nguyễn. Ông khẳng định "Dù tồn tại không dài nhưng nhà Mạc là một trong những vương triều có đóng góp cho lịch sử Việt Nam".
PGS Cường lý giải khi Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê thì chính quyền này đã không còn trong thời kỳ hưng thịnh như buổi ban đầu nữa. Khủng hoảng kinh tế xã hội rất rõ ràng, để giải quyết vấn đề đó thì Mạc Đăng Dung đã làm cuộc chính biến giành ngôi.
Sự thật là các triều đại ra đời, phát triển rồi suy tàn là quy luật lịch sử. Từ thời Đinh, Lý, Trần đã vậy. Ngoài ổn định kinh tế, nhà Mạc còn phát triển về văn hóa, giáo dục, mở nhiều khoa thi, tìm nhân tài cho đất nước.
Câu chuyện của chúa Nguyễn, nhà Nguyễn cũng cần nhìn nhận khách quan hơn. Công lao được ghi nhận trên các khía cạnh: cho người Việt khai phá vùng đất Nam Bộ; hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước nhà Tây Sơn mở ra nhưng chưa hoàn thiện được; củng cố bộ máy chính quyền từ Bắc đến Nam; đặc biệt là xác định chủ quyền đất nước với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Thời đó, mỗi năm triều đình đều cử đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải đi tuần thú ở các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bây giờ.
Dưới thời Nguyễn, văn hoá Việt Nam phát triển, nhiều công trình nay được thế giới công nhận di sản UNESCO như cung đình Huế. Trong khu vực Đông Nam Á bấy giờ thì Việt Nam là vương quốc hùng mạnh.
Bên cạnh đó, triều đại này cũng có những sai lầm mà lịch sử lên án. Như việc Nguyễn Ánh cầu cứu 5 vạn quân Xiêm sang xâm lược là một sai lầm hết sức nghiêm trọng. Hay ký với Pháp những hiệp ước bất lợi, dựa dẫm vào Pháp, không chịu canh tân dù thời bấy giờ có nhiều nhân sĩ, trí thức có tư tưởng đổi mới như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện... khiến đất nước bị lạc hậu đi, để rồi rơi vào tay ngoại bang gần một thế kỷ.
"Giới sử học đã đánh giá các triều đại này rõ ràng, khách quan, không phiến diện như trước đây", ông khẳng định.
Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam cho rằng, sử học là ghi chép trung thực về những chuyện đã qua, tổng kết những gì là giá trị, đúc kết ưu khuyết điểm để đi tới cái đúng và điều tốt đẹp hơn. Bộ sách ra đời cho người đọc có nhiều so sánh, đối chiếu đâu là sự thật lịch sử, đâu chỉ là dân gian.
Ông cũng chia sẻ thêm, điều đáng tiếc là hầu hết các tư liệu nằm rải rác trên đất nước gây khó khăn cho quá trình biên soạn. Chưa kể, Việt Nam chưa có quy định pháp luật về việc giải mật, công bố các tư liệu lịch sử. Trong khi, các nước có quy định loại tư liệu nào trong 20 năm, 30 năm, 50 năm thì được bạch hoá.
"5h sáng ngày 17/2/1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài 1.400 km tiến vào 6 tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái), Lai Châu, điều động 9 quân đoàn chủ lực; 2.559 khẩu pháo, 500 xe tăng và xe thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng Sơn, Lai Châu 10 – 15km, vào Cao Bằng 40 - 50km. Quân dân Việt Nam đã kiên cường chiến đấu bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự trong đó có 280 xe tăng, xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm phạm lãnh thổ Việt Nam". Trích Lịch sử Việt Nam, tập 14, trang 355. |