Họ đã tích cực mua của Liên Xô nhiều hệ thống vũ khí hiện đại, như hệ thống phòng không - không quân, gồm các loại tên lửa SAM, radar cảnh giới và máy bay tiêm kích. Trong đó, Ai Cập đã bí mật mua hệ thống radar P-12, là loại radar cảnh giới có thể tìm kiếm các mục tiêu trong bán kính 250 km, có 4 tần số phát và có khả năng chống nhiễu cao. Được trang bị radar hiện đại, có vấn quân sự Liên Xô trực tiếp tham gia lắp đặt, huấn luyện, chỉ huy và chuyển giao công nghệ, hệ thống phòng không của đất nước Trung Đông cải thiện đáng kể, là khắc tinh với máy bay chiến đấu đối phương. Một vài lần, máy bay Israel đã bị radar P-12 "tóm cổ" trên màn hình và báo động cho hệ thống phòng không tiêu diệt.
Trước tình hình đó, không quân Do Thái phải giảm các hoạt động không kích và tìm biện pháp đối phó. Qua các tin tức tình báo và máy bay trinh sát hiện đại xâm phạm lãnh thổ Ai Cập, Israel phát hiện Ai Cập đang sử dụng một loại radar mới với những tính năng hiện đại, hơn hẳn những loại trước đây. Một kế hoạch tìm và diệt các trạm radar P-12 gấp rút được soạn thảo. Nhiều máy bay chiến đấu hiện đại của Israel như F-4 "con ma", Mirage được huy động vào cuộc huỷ diệt nhằm vào một số căn cứ radar P-12, trong đó có căn cứ ở bờ biển Ras Ghareb gần kênh đào Suez. Tuy nhiên, vào những phút cuối, các chuyên gia quân sự phải huỷ bỏ kế hoạch vì quanh các căn cứ radar này hầu như không có phòng bị, không được bảo vệ bởi một lực lượng phòng không đáng kể nào. Thay vào đó, Israel lập một kế hoạch táo bạo: Thay vì tập kích hủy diệt, họ sẽ dùng đặc nhiệm đột kích bất ngờ vào thời điểm cuối năm 1969 để đánh cướp bằng được một pháo đài P-12, sau đó đưa về Israel "phẫu thuật" nhằm tìm các tham số kỹ thuật để tác chiến điện tử gây nhiễu, giúp các máy bay chiến đấu Israel tránh được nguy cơ bị bắn rơi trong các cuộc xung đột sắp tới. Kế hoạch này được Mỹ ủng hộ, vì không quân nước này đang sa lầy trong cuộc chiến leo thang bắn phá miền bắc Việt Nam. Washington hy vọng việc Israel cướp được radar P-12 sẽ ít nhiều giúp tìm hiểu hệ thống phòng không của miền bắc Việt Nam, bởi khi đó nước ta sử dụng nhiều khí tài phòng không của Liên Xô.
Tuy nhiên, đánh cướp một đài radar P-12 không phải chuyện đơn giản. Việc bay trực thăng qua phòng tuyến biên giới Israel - Ai Cập ở khu vực kênh đào Suez cực kỳ mạo hiểm. Căn cứ radar Ras Ghareb là mỏm núi hẹp, địa hình triển khai quân không thuận lợi. Hơn nữa, trọng lượng của một đài radar P-12 nặng ước tính 4 tấn, lỉnh kỉnh cả giàn ăngten khá lớn, tính cả xe chở chuyên dụng thì tổng trọng lượng một đài lên đến gần 7 tấn. Trong khi đó, trực thăng có sức chở lớn nhất của không quân Israel lúc đó chỉ có loại Super Frelon do tập đoàn Aerospatiale (châu Âu) chế tạo, sức nâng không nổi một buồng điều khiển của đài P-12. Không quân Do Thái yêu cầu Mỹ chuyển giao ngay 2 trực thăng hạng nặng Sikorky CH-53, mệnh danh "Sea Stallion" (Hải mã đực) mà Mỹ mới trang bị cho quân đội năm 1964, chuyên dùng cho lực lượng đặc nhiệm, vận chuyển quân, cứu nạn, giải cứu... Yêu cầu này được Lầu Năm Góc chấp nhận ngay bởi họ hứa được "chia phần" nếu thành công.
Trực thăng CH-53 có chiều dài 27 mét, cao 7,6 mét, tầm bay xa hơn 1.100 km nhờ lắp 2 thùng dầu phụ và hệ thống tiếp nhiên liệu trên không. Để bảo đảm thành công, không quân Israel tuyển chọn những phi công trực thăng giỏi nhất và hàng chục lính đặc nhiệm dù tinh nhuệ từng kinh qua nhiều chiến dịch bí mật. Đội đặc nhiệm được thực hành tại một số địa điểm bí mật có địa hình tương tự như mục tiêu ở lãnh thổ Do Thái. Israel có một số kinh nghiệm dùng trực thăng đột kích cẩu chiến lợi phẩm trong Chiến tranh Trung Đông 1967. Khi đó, họ đã sử dụng trực thăng cẩu một số giàn radar kiểu cũ và các thiết bị xe tăng của Ai Cập, Syria rồi vượt chiến tuyến về nước.
Sau khi được chuẩn bị kỹ càng, chiến dịch đánh cướp radar P-12 mang mật danh Rooster-53 (Gà trống-53) được khởi động lúc 21 giờ ngày 26/12/1969. Để nghi binh, thu hút sự chú ý của hệ thống phòng không Ai Cập, không quân Israel huy động nhiều máy bay chiến đấu A-4 và F-4 rầm rộ oanh tạc các vị trí quân sự dọc khu Bờ Tây, kênh đào Suez và bờ biển Hồng Hải. Trong khi đó, lợi dụng đêm tối, 3 trực thăng Super Frelon chở hàng chục lính đặc nhiệm dù bí mật bay cực thấp và luôn lách tránh radar đối phương. Quá trình bay hầu như không liên lạc bằng sống radio và không bật đèn hiệu. Hệ thống phòng không Ai Cập không phát hiện được vụ đột kích này và hoàn toàn bị hút vào cuộc oanh kích giả.
Đúng 2 giờ ngày 27/12/1969, lực lượng đặc nhiệm dù Israel bất ngờ đổ bộ xuống căn cứ radar Ras Ghareb. Lực lượng bảo vệ của Ai Cập ở đây hoàn toàn bất ngờ, không hề phòng bị gì nên chỉ chống cự yếu ớt và bị tiêu diệt trong chốc lát. Căn cứ radar P-12 lúc này hoàn toàn do đặc nhiệm dù Israel làm chủ. Theo hiệp đồng, 2 trực thăng CH-53 lượn vòng ngoài trên Hồng Hải đã lao vào vị trí làm nhiệm vụ. Đội đặc nhiệm nhanh chóng "xẻ thịt" chiến lợi phẩm, tháo gỡ và cắt rời đài radar P-12. Một chiếc CH-53 đảm nhiệm cẩu xe thông tin và giàn ăngten khổng lồ, chiếc còn lại cầu phần đài chỉ huy nặng tới 4,3 tấn, trong khi thiết kế của móc cẩu ngoài chỉ nâng tối đa 3 tấn. Chiếc CH-53 thứ nhất không khó khăn lắm khi trở về Israel, nhưng chiếc thứ 2 do phải cẩu khối lượng quá tải, nên bị đứt dây cáp và hỏng hệ thống thủy lực. Cơ trưởng N. Dagan lão luyện đã cố gắng bay cực thấp, lết về đến lãnh thổ Do Thái mới hạ cánh khẩn cấp. Chiếc CH-53 về trước đã quay lại hỗ trợ việc vận chuyển. Cuối cùng, một đài radar P-12 hoàn chỉnh đã được đánh cướp và đưa về tới căn cứ của Israel. Các chuyên gia tình báo tháo gỡ đến từng con ốc để phân tích các số liệu. Toàn bộ kết quả đã được chuyển giao cho Mỹ.
Một tuần sau, trước sự phản đối kịch liệt của Ai Cập, Israel buộc phải tổ chức họp báo về hành động nói trên, nhưng từ chối trả lại đài radar P-12. Điều đáng nói là Ai Cập đã mất cảnh giác, không bảo vệ mục tiêu chu đáo, không lường trước một cuộc tập kích táo bạo của đối phương, áp dụng một cách máy móc thiết bị quân sự và có phần chủ quan dựa vào khí tài hiện đại.
Theo ANTG