Trăng muộn đã đứng trên đỉnh đầu. Ánh trăng nhợt nhạt toả một thứ ánh sáng bàng bạc xuống vạn vật mờ ảo và huyền hoặc. Linh vội vã phóng xe về nhà. Đường vắng, chiếc xe như bay đi trên con đường tĩnh lặng, nhẵn bóng. Cô đánh một vòng cua điệu nghệ, dừng lại bên lề đường.
Linh bước ra khỏi xe leo lên phòng. Trước mắt cô là chồng và mấy người bạn nhậu, cuộc vui vẫn tiếp tục, dường như không hề có sự hiện diện của Linh. Linh bước vào phòng riêng, bé Thu đang ngủ vùi trong đống chăn đệm thơm thơm mùi nước hoa, mấy con búp bê, gấu bông, nằm chênh vênh dưới sàn nhà.
Bây giờ cô mới thấy đói. Cái đói nhắc Linh rằng từ sáng tới giờ mới có nửa cái bánh mỳ vào bụng, vượt đoạn đường xa hơn sáu trăm cây số. Không phải chỉ hôm nay mà rất nhiều lần vì lăn lộn với đồng tiền cô đã phải nhịn đói suốt cả ngày. Công việc làm ăn như một guồng máy gấp gáp ít khi có thời gian cho riêng mình để nghĩ ngợi điều gì ngoài tiền. Mấy ngày này tranh thủ lúc giao thời, Linh đánh hàng ra ngoại tỉnh. Toàn những mặt hàng ăn tới từ Việt Nam, Thái Lan, nhưng vào thời điểm này lại được giá và bán chạy, lãi suất gấp đôi.
Lâu nay Linh có một sở thích là đếm tiền sau mỗi chuyến đánh hàng về. Nhưng lần này cô không còn có cái khao khát được miết những ngón tay của mình lên mặt những đồng Mark sắc cạnh. Cô quẳng cả mớ xuống chân giường, trút bỏ áo xống chui vào chăn ôm bé Thu ngủ. Thu là con chung của cô và Quyết chồng cô ở đây. Cô thấy lạnh, hôm nay đã là những ngày giáp Tết ở quê nhà.
Bước vào tuổi 36 Linh đã có đủ bề dày của cuộc đời để nghĩ về quá khứ. Mười bốn năm trước đây, cô tốt nghiệp đại học ngoại ngữ tiếng Nga rồi trở về làm việc trong một thư viện của thành phố. Ngày ấy nghèo lắm, nhưng cứ đến Tết là cô lại chen xe về nhà với mẹ tận Quảng Bình. Lần nào về đến đầu ngõ là Linh đã thấy mẹ đang đứng đón con ở cổng. Đó là linh cảm hay mẹ vẫn thường đứng đó ngóng trông con? Cô vô tâm chưa bao giờ hỏi mẹ về điều này. Tiền lương chỉ đủ để ăn và hai lần mua vé tàu về thăm mẹ. Vậy mà lần nào về Linh cũng được ăn ngon bằng những thứ mẹ trồng và nuôi trong vườn nhà.
Chập chờn không ngủ được, Linh chợt nhận ra căn nhà đã trở nên vắng lặng. Mọi người rủ nhau đi đâu hết, kể cả chồng cô. Bé Thu ọ ẹ cựa mình gọi bố rồi lại ngủ tiếp. Linh đắp lại chăn cho con rồi trở dậy ra bếp. Bát đũa bề bộn, tàn thuốc vương vãi, khói thuốc đặc quánh. Dù trời lạnh nhưng cô vẫn phải mở cửa sổ cho bớt nặng mùi. Đây là cái dành cho cô sau một ngày làm việc cật lực!
Lần đầu tiên cô lấy chồng năm 1985 và cu Tiến cũng ra đời vào cuối năm đó. Năm sau chồng ốm rồi mất, cô suy sụp hoàn toàn, không đủ sức làm việc. Linh ôm con về với mẹ. Mẹ đã dốc hết vốn liếng và sức lực để chăm sóc cho mẹ con Linh. Khi cu Tiến ba tuổi, cô cũng dần bình phục và quyết định ra đi kiếm sống. Cô nghĩ 4 năm sẽ trở về, có một ít vốn đỡ mẹ nuôi con. Nhưng hình như cuộc sống nó chẳng chiều chuộng những ý định của đàn bà. Linh gặp Quyết, chẳng suy tính gì nhiều thì bé Thu đã ra đời.
Khi bức tường Berlin sập, Quyết là một trong những người Việt Nam chui qua đầu tiên để nhập vào dòng người tị nạn. Khổ nỗi Tây Đức người ta không nhận vì chẳng có lý do gì để làm dân tị nạn, mà chỉ là người vượt biên trái phép. Còn Linh thì sung vào đội quân thất nghiệp. Thất nghiệp thì còn có chế độ chứ di dân tự do thì không có chế độ gì.
Quyết đăng ký với Linh bằng một thứ giấy tờ giả để xin ở lại cùng vợ thật, thời điểm này luật pháp của nước Đức mới thống nhất còn nhiều kẽ hở. Thế nhưng Quyết cũng chỉ được ở lại có thời hạn vài tháng một. Người đàn ông này không thích cu Tiến mặc dù chưa một lần gặp mặt. Để giữ chồng, Linh phải cố quên đi đứa con đẻ của mình.
Năm 1994, Linh về phép mang theo một trọng trách đối với chồng. Tới Hà Nội cô chưa về nhà ngay mà ở nhờ nhà một người bạn. Linh tìm đến phố B... số nhà ... . Cô giơ tay bấm chuông, một người phụ nữ còn trẻ, nhẹ nhàng ra mở cửa.
- Đây có phải nhà anh Quyết không ạ?
- Vâng, mời chị vào.
- Vâng.
- Chắc em có tin chồng?
- Vâng, à…, em là vợ anh Quyết, anh ấy không về được, nhờ em nói với chị và gửi chị tờ giấy ly hôn của anh ấy. Chị làm dùm cho chúng em. Linh rút ra một chiếc phong bì, và đây là 500 đôla tiền chi phí, mong chị lo dùm.
Người đàn bà đối diện chết lặng một lúc rồi lấy lại bình tĩnh nói:
- Chị cũng là một phụ nữ như tôi, chắc chị hiểu. Nếu cần làm giấy tờ này anh ấy sẽ phải tự làm. Không cần phải nhờ đến chị và cũng không phải tiền nong gì cả. Chị đi đi và đừng bao giờ làm những việc không phải của mình. Chị đừng tìm tôi nữa, chẳng ích gì.
Linh lững thững bước đi như một cô học trò thi trượt. Bây giờ cô mới nhớ mẹ và đứa con thơ, nhớ cồn cào. Cô đi ra ga lấy vé tàu.
Gặp lại, mẹ đã già đi nhiều, ít nói, ít cười. Cu tý thì chỉ chơi với mẹ lấy lệ rồi lại quấn lấy bà. Đây là lần đầu tiên cô về mà mẹ không có linh cảm để đón cô. Sau hơn một tháng ở nhà, trước lúc cô lên đường, mẹ đưa cho cô một bức thư và nói: "Từ nay con không được quay về cái nhà này nữa". Bà vẫy cho chiếc xe đi không nói lời từ biệt.
Linh bóc chiếc bì thư ra xem. Đấy là chiếc giấy công nhận ly hôn của Quyết và một mảnh giấy nhỏ có dòng chữ “Chúc cô may mắn hơn tôi, nhưng đừng bao giờ ảo tưởng có tình yêu với một con người như Quyết”. Dưới chân cô những đồng đôla rơi lả tả, những đồng đôla mà cô đã cố nhét vào nhà Liên hôm trước. Linh cảm thấy bải hoải, đơn độc.
Cứ thế sau một tuần trăng, đi làm về đến cả căn hộ trống rỗng, không có bé Thu, không Quyết. Trên chiếc bàn nhỏ đầu giường có một tờ giấy để lại viết "Tờ giấy kết hôn của chúng ta là giả, còn tờ giấy ly hôn kia là thật. Trả lại cái giả dối cho cô. Đừng tìm nhau làm gì vô ích".
Linh bàng hoàng lao tới nơi cất tiền thì chẳng còn gì. Cô chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Cô buông mình xuống chiếc ghế trong căn phòng trống trải, cô quạnh – nó trống trải như tâm hồn và cuộc đời cô. Hai tờ giấy vẫn còn trên bàn. Cô biết rằng không phải tờ giấy kết hôn kia là giả mà chỉ có tình yêu của cô là giả dối mà thội.
Cô khóc và gọi mẹ. Chắc mẹ vẫn chờ cô.
Nguyễn Văn Thành