Về cơ bản, pháp luật bảo vệ quyền đối với hình ảnh, quyền về bí mật đời tư (bí mật cá nhân, đời sống riêng tư) của cá nhân. Cụ thể, điều 32 Bộ luật Dân sự quy định:
1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Bộ luật Dân sự cũng quy định về quyền với bí mật đời tư như sau:
1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Pháp luật không quy định rõ thế nào là bí mật đời tư nhưng có thể hiểu đó là những thông tin liên quan đến cuộc sống của một cá nhân nhất định mà cá nhân đó thấy rằng cần thiết và mong muốn giữ bí mật; không phải là thông tin, hiểu biết công cộng và sẽ gây ảnh hưởng nặng nề đối với cá nhân đó nếu bị xâm phạm.
Hành vi cô giáo dạy học tại trường khó có có cơ sở để coi “bí mật đời tư”. Hơn nữa, cô giáo đó lại có hành vi xâm hại đến học sinh thì không thể coi đó là bí mật đời tư.
Mặc dù cá nhân có quyền đối với hình ảnh và việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý nhưng trừ trường hợp “vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, học sinh tiểu học là trẻ em theo Luật này (trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi). Theo Luật này, trẻ em có quyền được chăm sóc; được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu.
Điều 26 Luật này cũng quy định rõ gia đình, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn cho trẻ em; mọi hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em đều bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cô giáo có hành vi vi phạm quyền của trẻ em (dùng thước đánh vào đầu, vào tay của học sinh tiểu học) và chị quay hình để nhằm làm bằng chứng tố cáo vi phạm, ngăn chặn vi phạm thì đó hành vi được pháp luật cho phép và không vi phạm về quyền cá nhân với hình ảnh cũng như không phạm quyền về bí mật đời tư của cô giáo.
Ngoài ra, cô giáo không đồng ý việc quay hình, tự ý giật điện thoại cũng là hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, do đó, cô giáo không có quyền ngang nhiên giật điện thoại của chị. Nếu không đồng ý việc quay hình, cô giáo chỉ được quyền yêu cầu chị xóa đi hình ảnh hoặc clip đó chứ không được tự ý giật và chiếm hữu trái phép tài sản của chị.
Luật sư Kiều Anh Vũ
Văn phòng Luật sư Lê Nguyễn, TP HCM