Về quan hệ giữa mẹ vợ và bố vợ bạn: Luật Hôn nhân và gia đình các năm 1959, 1986 và 2000 đều quy định rõ quan hệ hôn nhân chỉ được công nhận khi: đủ điều kiện kết hôn, không vi phạm điều cấm của luật hôn nhân và gia đình và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luật cũng quy định rõ về việc cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác. Do vậy, việc cùng chung sống và có con chung của bố, mẹ vợ bạn trong khi bố vợ bạn đã có vợ (có đăng ký kết hôn) là vi phạm nghiêm trọng pháp luật hôn nhân và gia đình nên bố, mẹ vợ bạn không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Về việc phân chia tài sản (nếu có): Do bố mẹ vợ bạn không được pháp luật công nhận là vợ chồng nên giả sử bố mẹ vợ bạn cùng đóng góp công sức, tiền của để tạo lập nên ngôi nhà (hiện do mẹ vợ bạn đứng tên) hoặc có các tài sản chung khác thì những tài sản này được phân chia như sau: tài sản riêng của ai thì thuộc về người đó, tài sản chung phân chia theo nguyên tắc phân chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể này, giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà đứng tên một mình mẹ vợ bạn nên về nguyên tắc đây là tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mẹ vợ bạn. Do đó, khi mẹ/bố vợ bạn mất đi thì gia đình bố vợ bạn cũng không có quyền tranh chấp ngôi nhà với vợ bạn, trừ trường hợp, gia đình bố vợ bạn có chứng cứ để chứng minh bố vợ bạn có công sức đóng góp trong việc tạo lập ngôi nhà.
Về việc mẹ vợ bạn lập di chúc định đoạt ngôi nhà: Như đã nêu ở trên, mẹ vợ bạn là chủ sở hữu ngôi nhà. Khoản 1 Điều 13 Luật Nhà ở quy định “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở quy định tại Luật này là cơ sở pháp lý để chủ sở hữu nhà ở thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà ở đó theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 21 Luật Nhà ở quy định cụ thể các quyền của chủ sở hữu nhà ở, trong đó có quyền “để thừa kế”. Như vậy, việc mẹ vợ bạn lập di chúc để lại ngôi nhà cho vợ bạn là đúng theo quy định của pháp luật.
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Thanh Bình
Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội