Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2003, Chính phủ đã xây dựng Dự án Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nội dung được sửa đổi, bổ sung trong lần dự thảo trước đây (tháng 8 năm 2001) cùng với một số nội dung của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và những nội dung mới phù hợp với thực tiễn.
Dự thảo Luật này đã được gửi xin ý kiến của các cơ quan ở trung ương, các đại biểu tham dự Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (tháng 3/2003), các thành viên Chính phủ về một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Sau khi trình Ủy ban thường vụ Quốc hội về những nội dung cơ bản trong Dự án Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi), Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ ba vừa qua.
Sau đây là những nội dung cơ bản của Dự án Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi):
I. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung luật bầu cử đại biểu HĐND
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội khóa IX thông qua năm 1994 theo tinh thần Hiến pháp 1992. Qua thực tiễn áp dụng, Luật đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1994 - 1999 và nhiệm kỳ 1999 - 2004; tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp.
Tuy nhiên, qua thực tiễn tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hai nhiệm kỳ vừa qua cho thấy, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế, như: tiêu chuẩn, số lượng đại biểu; quyền bầu cử, ứng cử, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; về nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử; quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân… chưa được cụ thể hóa và còn một số vấn đề bất cập.
Để quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và các Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương về xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương các cấp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao chất lượng và hiệu quả của dân chủ đại diện, từng bước mở rộng và phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân ở các địa phương, việc sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là cần thiết, góp phần quan trọng vào việc cụ thể hóa những nội dung mới của Hiến pháp 1992, chuẩn bị tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009.
II. Những nội dung cơ bản trong Dự án Luật
1. Về tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân
Điều 3 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định về tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân chưa phản ánh tính đặc thù trong đại diện cho nhân dân địa phương, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử. Để cụ thể hóa quan điểm của Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng với yêu cầu lựa chọn những người xứng đáng vào cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Điều 3 của Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tách nội dung thành các nhóm tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ, uy tín và điều kiện tham gia hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Dự thảo và qua thảo luận của các đại biểu Quốc hội về Dự thảo Luật này, cũng còn một số ý kiến khác nhau. Cụ thể là:
- Có ý kiến cho rằng cần bổ sung quy định đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương nào phải là người cư trú hoặc công tác thường xuyên tại địa phương đó;
- Có ý kiến đề nghị đại biểu Hội đồng nhân dân phải là người có năng lực hành vi dân sự và phải được quy định trong tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân ở từng cấp, nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nên quy định quá chi tiết về tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân vì thực tế không thể ghi đầy đủ được.
2. Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và việc quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
a, Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
Theo quy định của Luật hiện hành, Hội đồng nhân dân cấp xã có từ 19 đến 25 đại biểu; Hội đồng nhân dân cấp huyện có từ 25 đến 35 đại biểu; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 45 đến 75 đại biểu, riêng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh có trên 2,5 triệu dân được bầu không quá 85 đại biểu. Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi đơn vị tính theo số dân nhưng nằm trong khung quy định trên.
Thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994-1999 và nhiệm kỳ 1999-2004 cho thấy: số đại biểu Hội đồng nhân dân ở các cấp như hiện nay chưa phản ánh đầy đủ tính đại diện cho cộng đồng dân cư, đơn vị hành chính, chưa bảo đảm cơ cấu cho các thành phần xã hội, chưa phản ánh đầy đủ tính đại diện cho nhân dân ở địa phương, nhất là ở cấp xã.
Để khắc phục hạn chế trên, Dự thảo luật đã được sửa đổi, bổ sung quy định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân theo hướng tăng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Theo đó, Hội đồng nhân dân cấp xã được bầu từ 25 đến 35 đại biểu; Hội đồng nhân dân cấp huyện được bầu từ 30 đến 40 đại biểu; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được bầu từ 50 đến 90 đại biểu, riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được bầu không quá 110 đại biểu. Đối với các trường hợp đặc biệt là xã có dân số từ một nghìn người trở xuống được bầu dưới 25 đại biểu. Các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có từ ba mươi xã, phường, thị trấn trở lên được bầu trên 40 đại biểu.
Theo hướng này, Dự thảo Luật đã quy định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân của từng địa phương dựa trên một số tiêu chí như điều kiện địa lý, đặc điểm quản lý và dân số của từng đơn vị hành chính để chia thành các khung nhỏ hơn. Các địa phương chủ động quyết định số lượng đại biểu cụ thể trên cơ sở quy định của Luật bầu cử, phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương.
Đây là cách tính mới số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, về cơ bản vẫn dựa trên dân số của các địa phương nhưng lại không quy định cứng như trong Luật hiện hành. Ưu điểm của phương án này là tạo được tính chủ động cho địa phương trong việc quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân trong khuôn khổ pháp luật.
Trong quá trình thảo luận, cho ý kiến về Dự thảo Luật và qua các lần xin ý kiến đóng góp của các cơ quan trung ương, các thành viên Chính phủ, các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc về tổ chức và hoạt động Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đa số ý kiến đều đồng ý với quan điểm là cần thiết phải tăng số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp để qua đó nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan đại diện ở địa phương. Tuy nhiên, cũng còn một số ý kiến khác. Cụ thể là:
- Đề nghị cần phải làm rõ các cơ sở để tăng số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, phải làm rõ mối quan hệ giữa tăng số lượng đại biểu với chất lượng đại biểu;
- Đề nghị quy định số lượng đại biểu trên cơ sở số dân vì đại biểu là đại diện cho nhân dân, trên cơ sở đó quy định cứng số lượng đại biểu với đơn vị hành chính có số dân nhất định, còn phần số lượng tăng thêm thì căn cứ trên tỷ lệ phần trăm dân số tăng lên so với dân số đã quy định trong luật;
- Đề nghị cân nhắc việc tăng số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, không nên tăng đồng đều số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân như trong Dự thảo; ở cấp huyện và cấp tỉnh thì căn cứ vào số đơn vị hành chính, nhưng ở cấp xã lại căn cứ vào số dân; Việc lấy đơn vị hành chính để làm căn cứ xác định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là chưa hợp lý, vì đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả 2 cấp này đều đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Hơn nữa, quy định như trong Dự thảo cũng chưa thống nhất giữa cấp xã với cấp huyện và cấp tỉnh;
- Có ý kiến đề nghị quy định khung số lượng đại biểu cho cấp huyện là từ 35 đến 55 người, cấp tỉnh từ 55 đến 95 hoặc 60 đến 90 người vì cho rằng quy định như trong Dự thảo có thể không bảo đảm để Hội đồng nhân dân có đầy đủ các đại diện của các đơn vị hành chính cấp dưới;
- Có ý kiến thì cho rằng quy định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã và cấp huyện như trong Dự thảo là hợp lý và đề nghị giữ nguyên số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh như Luật hiện hành;
- Đề nghị quy định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tối thiểu là 60 người hoặc quy định số lượng tối đa đại biểu Hội đồng nhân dân phường phải nhiều hơn 35 người vì phường có dân số lớn, có nhiều vần đề cần giải quyết; có ý kiến đề nghị quy định cụ thể cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; đối với số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có ý kiến đề nghị áp dụng cách tính chung, không nên quy định thành một trường hợp đặc biệt, tách rời với các tỉnh và thành phố khác;
- Có ý kiến đề nghị chia khung đại biểu như trong dự thảo là quá lớn, dễ dẫn đến sự khác biệt về số lượng đại biểu; cũng có ý kiến đề nghị quy định cụ thể cách tính số lượng đại biểu trên cơ sở mức tăng dân số như Luật hiện hành, nếu không thì các địa phương rất khó quyết định hoặc dễ dẫn đến hiện tượng tùy tiện trong khi quyết định số lượng đại biểu của Hội đồng nhân dân cấp mình; không nhất thiết phải quy định các trường hợp đặc biệt căn cứ vào số lượng các đơn vị hành chính cấp dưới mà nên tuân thủ cách tính căn cứ vào dân số; có ý kiến khác đề nghị là nên quy định số lượng cho các đơn vị hành chính này với khung đại biểu thấp hơn hoặc cao hơn mức bình thường.
b. Về việc quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
Để tạo điều kiện cho các địa phương chủ động quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với điều kiện và đặc điểm của địa phương, Dự thảo Luật bổ sung một điều mới (Điều 10) theo hướng phân cấp cho Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định số lượng cụ thể đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương mình trên cơ sở phạm vi số lượng đại biểu mà pháp luật quy định. Theo đó, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gửi dự kiến số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình lên Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện gửi dự kiến số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình và cấp xã lên Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình, cấp huyện, cấp xã.
Ngoài quy định chung về việc quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân như đã nêu ở trên, Dự thảo Luật cũng đã quy định số lượng đại biểu trong một số trường hợp đặc biệt. Cụ thể là: Đối với xã có dân số từ một nghìn người trở xuống được bầu dưới 25 đại biểu, số lượng cụ thể do Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện. Các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có từ ba mươi xã, phường, thị trấn trở lên được bầu trên 40 đại biểu, số lượng cụ thể do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Quy định như vậy là nhằm tạo điều kiện cho các xã có dân số ít (thường là các xã miền núi, hải đảo) có thể giới thiệu, hiệp thương và bầu được một số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hợp lý đáp ứng các tiểu chuẩn luật định; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân có đủ đại diện của các đơn vị hành chính cấp dưới.
Trong quá trình xây dựng Dự thảo, xin ý kiến đóng góp, đặc biệt là tại kỳ họp Quốc hội lần này, đa số các ý kiến đồng tình với quy định giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình và cấp dưới. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã trên cơ sở đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân; giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội Quốc hội quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Ý kiến này cho rằng quy định như vậy sẽ tăng thẩm quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện trong việc quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp dưới, tạo ra tính hệ thống trong việc quyết định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân. Vấn đề đặt ra là nếu để Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định toàn bộ số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân của tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì có phù hợp với thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội hay không vì Luật Tổ chức Quốc hội chỉ quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, bãi bỏ các quyết định sai trái của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và giải tán Hội đồng nhân dân nếu Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân. Đối với các trường hợp đặc biệt như đã nêu ở trên, có ý kiến đề nghị là nên quy định giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định như các trường hợp khác mà không nhất thiết phải quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
3. Về việc dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân
Về vấn đề này, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành chưa có quy định cụ thể, nên trên thực tế các cuộc bầu cử gần đây, việc dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện không thống nhất. Để khắc phục hạn chế đó, việc giao thẩm quyền dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân làm cơ sở cho việc áp dụng thống nhất là cần thiết. Trong quá trình soạn thảo cũng như xin ý kiến về Dự án Luật, hiện có hai loại ý kiến khác nhau về vấn đề này. Cụ thể là:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị: giao cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân. Đây là phương án được Chính phủ lựa chọn để trình xin ý kiến Quốc hội tại kỳ họp lần này vì cho rằng Mặt trận Tổ quốc là tổ chức chính trị - xã hội đại diện rộng rãi cho nhân dân nên khách quan trong việc dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu. Hơn nữa, quy định này còn có thể tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc tham gia một cách đầy đủ hơn trong hoạt động xây dựng chính quyền. Thông qua Mặt trận Tổ quốc, nhân dân thể hiện ý chí của mình ngay từ giai đoạn đầu của quá trình bầu ra cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, hạn chế của Phương án này là ở chỗ nếu Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc dự kiến, sau đó chính Ban thường trực lại tổ chức và chủ trì Hội nghị hiệp thương gồm Ban thường trực và đại diện các tổ chức thành viên để thỏa thuận, trên cơ sở kết quả hiệp thương lại tiếp tục tiến hành điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân thì sẽ không hợp lý và dễ mang tính hình thức. Mặt khác, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lại không có tư cách pháp lý để ra văn bản pháp luật phù hợp về vấn đề này.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị: giao thẩm quyền dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cho Thường trực Hội đồng nhân dân thì sẽ khắc phục được sự chồng chéo về thẩm quyền dự kiến, điều chỉnh và tiến hành hiệp thương về cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân. Hơn nữa, Thường trực Hội đồng nhân dân là tổ chức hiểu thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cũng như điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương, nên có điều kiện thuận lợi để dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu phù hợp với yêu cầu thực tế đặt ra ở địa phương. Nhưng Phương án này cũng có hạn chế là Thường trực Hội đồng nhân dân không có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật phù hợp.
Ngoài ra cũng còn có ý kiến cho rằng, nếu Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy đinh Thường trực Hội đồng nhân dân là một cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân thì cần thiết phải giao thẩm quyền dự kiến, điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân cần cho cơ quan này. Nếu Luật không quy định Thường trực Hội đồng nhân dân là một cơ quan thì không nên sửa đổi quy định này mà nên giữ nguyên như Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành.
Tại Báo cáo thẩm tra, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho rằng nếu không có phương án nào tối ưu hơn để khắc phục những hạn chế trên thì chưa nên bổ sung quy định này vào Dự thảo Luật mà nên giữ nguyên như trong Luật hiện hành. Tuy nhiên, trong quá trình thảo luận cho ý kiến về Dự án luật này, đa số ý kiến của các đại biểu Quốc hội nhất trí cao với loại ý kiến thứ hai là giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân sau khi thống nhất với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến, điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân.
4. Về thời gian công bố ngày bầu cử và các công việc chuẩn bị bầu cử
Qua thực tiễn chuẩn bị và tiến hành hai cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994-1999 và nhiệm kỳ 1999-2004, có một số khâu do thời gian quy định còn ngắn, trong khi đó thường tổ chức kết hợp bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ba cấp trong cùng một ngày, nên khối lượng công việc nhiều, dẫn đến việc tổ chức thực hiện còn cập rập, vội vàng, ảnh hưởng đến chất lượng công tác bầu cử. Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị bầu cử, Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng thời gian công bố ngày bầu cử quy định tại Điều 7 từ "chậm nhất là chín mươi ngày trước ngày bầu cử" lên "chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử". Bên cạnh việc tăng thời gian công bố ngày bầu cử, Dự thảo cũng điều chỉnh thời gian các công việc chuẩn bị ở các điều khác liên quan cho phù hợp.
Nhìn chung, trong quá trình soạn thảo cũng như trong quá trình xin ý kiến về Dự án Luật, tất cả các ý kiến đều nhất trí cao với việc tăng thời gian công bố ngày bầu cử và tăng thời gian thực hiện các khâu trong quá trình bầu cử là cần thiết để cuộc bầu cử đạt kết quả cao.
5. Về khu vực bỏ phiếu
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định mỗi khu vực bỏ phiếu “có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri”. Trong thực tế, tại các khu vực bầu cử đều kết thúc việc bỏ phiếu rất sớm. Vì vậy, việc quy định số lượng tối thiểu ba trăm cử tri là phù hợp với các vùng có dân cư sống không tập trung và điều kiện đi lại khó khăn.
Tuy nhiên, với đa số các khu vực bỏ phiếu, nơi dân cư sống tập trung, điều kiện đi lại thuận tiện, thì việc quy định số lượng tối đa hai nghìn cử tri là không cần thiết, làm tăng các khu vực bỏ phiếu. Việc tăng số lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ phiếu sẽ làm giảm số lượng các khu vực bỏ phiếu, do đó có thể tiết kiệm được kinh phí phục vụ bầu cử. Mặt khác, trên thực tế, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1989 cũng quy định mỗi khu vực bỏ phiếu có đến bốn nghìn cử tri và cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1989-1994 chúng ta đã hoàn thành tốt. Vì vậy, Điều 15 của Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng số lượng cử tri tối đa ở mỗi khu vực bỏ phiếu từ hai nghìn lên bốn nghìn cử tri.
Trong quá trình xây dựng và xin ý kiến về Dự án luật, đa số các ý kiến đều nhất trí cao với việc tăng số lượng cử tri tối đa ở các khu vực bỏ phiếu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số ý kiến băn khoăn về tính khả thi của quy định này vì cho rằng nếu một khu vực bỏ phiếu có bốn nghìn cử tri thì rất lớn, khó khăn cho công tác tổ chức, khó bảo đảm được an ninh - trật tự cho cuộc bỏ phiếu. Hơn nữa, trên thực tế rất ít khi có thể tổ chức được một khu vực bỏ phiếu lớn như vậy. Vì thế, không cần thiết phải sửa đổi quy định này.
6. Về số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định mỗi đơn vị bầu cử được bầu không quá ba đại biểu. Với việc tăng số lượng đại biểu ở tất cả các cấp trong Dự thảo lần này sẽ dẫn đến việc tăng số lượng các đơn vị bầu cử. Để thuận tiện cho việc tổ chức bầu cử, nhất là ở cấp xã và bảo đảm tiết kiệm ngân sách nhà nước, Điều 12 của Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử từ "không quá ba đại biểu" lên "không quá năm đại biểu". Tùy tình hình thực tế, các địa phương chủ động bố trí hợp lý số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương mình.
Nhìn chung, trong quá trình xây dựng cũng như trong quá trình xin ý kiến về Dự thảo Luật, các ý kiến đều đồng tình với việc tăng số người ứng cử ở mỗi đơn vị bỏ phiếu. Tuy nhiên, hiện nay còn có một số ý kiến khác về vấn đề này. Cụ thể là:
- Có ý kiến cho rằng quy định mỗi đơn vị bầu cử có thể được bầu không quá 5 đại biểu là quá nhiều, gây khó khăn cho việc lựa chọn.
- Có ý kiến đề nghị quy định mỗi đơn vị bầu cử được bầu ít nhất ba đại biểu và có số dư ít nhất là hai.
- ý kiến khác lại đề nghị quy định số đại biểu được bầu ở các đơn vị bầu cử đối với một số trường hợp đặc thù (ví dụ huyện đảo Bạch Long Vỹ).
7. Về các tổ chức phụ trách bầu cử
Theo quy định tại Điều 14 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân gồm có: Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử. Việc thành lập, thời gian thành lập, số lượng thành viên, thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử được quy định tập trung tại các Điều 15, 16 và Điều 17 của Luật hiện hành. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy có một số vấn đề cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với quá trình chuẩn bị và tổ chức bầu cử. Cụ thể là:
a) Về việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử.
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử cấp nào thì do Ủy ban nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân (đối với cấp xã là Chủ tịch Hội đồng nhân dân) và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp ấy thành lập. Tổ bầu cử thì do Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã thành lập. Quy định này chưa xác định rõ vai trò và trách nhiệm cơ quan nào trong việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất.
Để khắc phục hạn chế này, Điều 17 của Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung theo hướng giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, quyết định thành lập Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
Trong quá trình xây dựng Dự thảo và xin ý kiến đóng góp của các cơ quan ở trung ương, các thành viên Chính phủ và các đại biểu tham dự Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cho thấy có hai loại ý kiến khác nhau về vấn đề này:
Loại ý kiến thứ nhất (chiếm đa số) cho rằng, cần giao thẩm quyền này cho Ủy ban nhân dân vì Ủy ban nhân dân là cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật cá biệt là quyết định thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm nói trên, phương án này cũng có hạn chế ở chỗ Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân nên Ủy ban nhân dân ra quyết định thành lập không phù hợp với địa vị pháp lý.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nếu giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân có thẩm quyền thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử thì khắc phục được hạn chế nêu trên. Hơn nữa, tạo điều kiện để nâng cao thẩm quyền của Thường trực Hội đồng nhân dân trong quá trình bầu cử. Tuy nhiên, các ý kiến này cũng nhận thấy phương án này có hạn chế là không phù hợp với thẩm quyền ban hành văn bản. Hơn nữa, theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành, thì ở cấp xã chưa có Thường trực Hội đồng nhân dân.
Về vấn đề này, trong Báo cáo thẩm tra về Dự án luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho thấy ý kiến chung của Ủy ban Pháp luật đề nghị giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân sau khi thống nhất với Ủy ban nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập vì như vậy mới phù hợp với quy định tại các điều 15, 16 và 17 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
b) Về thành phần, số lượng thành viên và nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử
Để bảo đảm sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật, Dự thảo Luật đã thay các cụm từ "tổ chức xã hội khác" bằng cụm từ "tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội" được quy định tại các Điều 17, 18 và Điều 19 của Dự thảo.
Về số lượng thành viên Hội đồng bầu cử, Điều 15 của Dự thảo được sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng số lượng thành viên của Hội đồng bầu cử các cấp, theo đó Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh có từ 15 đến 21 người; Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp huyện có từ 11 đến 15 người; Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp xã có từ 9 đến 11 người.
Về nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử, Khoản 2 Điều 17 của Dự thảo đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng giao cho Hội đồng bầu cử nhận và xem xét hồ sơ của những người ứng cử và chuyển cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Qua quá trình xây dựng cũng như xin ý kiến đóng góp về Dự thảo luật, các ý kiến đều nhất trí cao với việc sửa đổi này.
8. Về việc lập danh sách cử tri
Danh sách cử tri là cơ sở pháp lý để cử tri nhận thẻ cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình. Vì vậy, pháp luật phải quy định rất chặt chẽ về việc lập danh sách cử tri. Chẳng hạn, mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi mình thường trú hoặc cư trú; những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri… Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành chưa quy định rõ những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri, mà để văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện. Do đó, Điều 24 của Dự thảo Luật quy định rõ việc ghi tên vào danh sách cử tri đối với những trường hợp công dân thay đổi nơi cư trú ở đơn vị hành chính này sang đơn vị hành chính khác và quy định về việc ghi tên vào danh sách cử tri đối với những trường hợp cử tri là sinh viên, học sinh, học viên ở các trường chuyên nghiệp, trường Đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cử tri ở các đơn vị vũ trang nhân dân.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị cử tri là sinh viên, học sinh ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cử tri ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Theo ý kiến này thì sinh viên, học sinh, học viên ở các trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị vũ trang nhân dân thường chỉ tạm trú ở địa phương nơi có trường học hoặc đơn vị đóng quân trong một thời gian nhất định. Do đặc điểm về tổ chức, hoạt động và thực hiện nhiệm vụ được giao nên số cử tri này ít có điều kiện quan hệ trực tiếp với chính quyền và nhân dân địa phương nên việc lựa chọn đại biểu bầu vào Hội đồng nhân dân cấp xã là vấn đề khó khăn đối với họ. Hơn nữa, do trường học, đơn vị có số lượng cử tri đông ở một đơn vị nhất định của cấp cơ sở nên việc lựa chọn của họ có ý nghĩa quyết định đối với kết quả bầu cử.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cử tri là sinh viên, học sinh, học viên ở các trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Theo loại ý kiến này thì cử tri thuộc các đối tượng nêu trên đều cư trú trên địa bàn cấp xã, vì vậy chính họ mới có thể nắm được tình hình của địa phương và thông qua đó mới lựa chọn chính xác người đại diện ý chí, nguyện vọng của cử tri. Hơn nữa, việc quy định để sinh viên, học sinh, học viên và cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã cũng là phù hợp với nội dung quy định về dân chủ ở cơ sở.
Bên cạnh đó, Điều 26 của dự thảo Luật cũng quy định những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri. Cụ thể là: Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự.
Về vấn đề này, ý kiến chung tán thành với việc bổ sung nội dung trên, vì cho rằng trong dự thảo luật cần quy định cụ thể các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri. Hơn nữa, những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử đại biểu Quốc hội cũng đã được quy đinh cụ thể tại Điều 23 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Để bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, việc bổ sung nội dung trên là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, có ý kiến khác lại cho rằng việc quy định người đang bị tạm giam không được ghi tên vào danh sách cử tri có thể chưa đúng pháp luật bởi vì họ chưa bị mất quyền công dân. Vì vậy, cần cân nhắc quy định này.
9. Về ứng cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
Vấn đề ứng cử, đề cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã được quy định thành 12 điều trong Chương V của Luật hiện hành.
Tự ứng cử là việc công dân căn cứ vào quy định của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xét thấy mình có đủ tiêu chuẩn, trình độ, năng lực thì nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tại Hội đồng bầu cử tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi mình ra ứng cử.
Đề cử là việc công dân thực hiện quyền ứng cử của mình thông qua tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế , đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân , các cơ quan Nhà nước ở địa phương.
Qua thực tiễn áp dụng Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành cho thấy những quy định này chưa phản ánh rõ các khâu quan trọng trong quá trình chuẩn bị bầu cử. Vì vậy, Dự thảo Luật đã tách những quy định trong Chương này thành bốn mục là: ứng cử và hồ sơ ứng cử; hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; danh sách những người ứng cử và tuyên truyền, vận động bầu cử.
Bên cạnh việc cơ cấu lại các điều, mục của Chương V, Dự thảo cũng sửa đổi một số quy định hiện hành và bổ sung một số quy định mới vào các điều trong Chương này như sau:
- Điều 30 và Điều 31 của Dự thảo Luật quy định về thủ tục, trình tự nộp đơn ứng cử của những người tự ứng cử và người được giới thiệu ứng cử trước khi tổ chức Hội nghị hiệp thương. Ý kiến chung tán thành với nội dung quy định tại hai điều này. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một nội dung mới là người ứng cử phải có hộ khẩu tại địa phương;
- Điều 32 của Dự thảo Luật quy định mới về những trường hợp không được ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân trên cơ sở những quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đã được kiểm nghiệm, có tính ổn định và phù hợp với thực tiễn;
- Từ Điều 33 đến Điều 40 của Dự thảo Luật quy định một số nội dung liên quan đến công tác hiệp thương lựa chọn giới thiệu người ứng cử theo hướng: quy định rõ hơn về các Hội nghị hiệp thương, các bước giới thiệu, nhận xét người ứng cử, thời gian, thành phần, nội dung, biên bản của các Hội nghị hiệp thương, số dư ở các đơn vị bầu cử, trách nhiệm xác minh và trả lời những vụ việc mà cử tri nêu lên.
Riêng đối với Điều 35 của Dự thảo Luật vẫn còn có ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng ở cơ quan do Hội nghị cử tri giới thiệu người ra ứng cử thì không nên quy định lãnh đạo cơ quan dự kiến người ra ứng cử. Trong lúc đó, có ý kiến khác lại cho rằng việc hiệp thương giới thiệu đại biểu Hội đồng nhân dân xã nên giao cho các tổ dân phố giới thiệu trước, sau đó Ban thường trực Ủy ban Mặt trận tổ quốc đưa ra hiệp thương giới thiệu ứng cử.
Đối với Điều 36, có ý kiến cho rằng quy định như trong Dự thảo Luật là chưa rõ, đề nghị giao cho Mặt trận Tổ quốc tổ chức Hội nghị gồm các đại diện thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố để thảo luận dự kiến giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Từ Điều 41 đến Điều 44 của Dự thảo Luật quy định về danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Từ Điều 45 đến Điều 48 của Dự thảo quy định cụ thể về vấn đề tuyên tuyền, vận động bầu cử.
10. Về việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn
Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định tại Điều 28 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành. Theo quy định này, chỉ có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân đề cử đại biểu của mình ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc cử tri ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố giới thiệu đại diện của mình ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn cho phù hợp với nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Vì vậy, trong Dự thảo Luật đã bổ sung một điều mới (Điều 36) quy định về vấn đề này. Đồng thời giao cho Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Chính phủ hướng dẫn thực hiện.
11. Về số dư ở các đơn vị bầu cử
Thực tiễn tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các nhiệm kỳ vừa qua cho thấy, nhiều địa phương bố trí số dư ở các đơn vị bầu cử quá ít (thường chỉ có một người). Trong những trường hợp đặc biệt, do người ứng cử chết hoặc bị xóa tên thì việc thay đổi danh sách người ứng cử ở các đơn vị bầu cử là rất khó thực hiện. Hơn nữa, việc tăng số dư sẽ bảo đảm tính dân chủ để cử tri lựa chọn những người xứng đáng làm đại biểu Hội đồng nhân dân. Do đó, Điều 43 của Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung theo hướng số người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó ít nhất là hai người. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng để có được số dư ở các đơn vị bầu cử ít nhất là hai người như quy định tại Điều 43 dự thảo Luật trong trường hợp cá biệt hoặc qua việc xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với người trong danh sách ửng cử thì cần phải nghiên cứu kỹ và quy định cụ thể về những nội dung này nhằm bảo đảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở mỗi cấp, ở mỗi đơn vị bầu cử. Chẳng hạn, số dư ứng cử viên được giới thiệu ở một đơn vị bầu cử phải nhiều hơn là hai người để trong trường hợp đưa ra khỏi danh sách ứng cử viên một người nào đó vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do khác thì vẫn bảo đảm số lượng và cơ cấu đã dự kiến.
12. Về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
Thực tiễn các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vừa qua cho thấy khiếu nại, tố cáo trong bầu cử là vấn đề phức tạp. Điều 37 Luật hiện hành quy định chưa đầy đủ, không sát với thực tiễn, nhất là đối với các trường hợp khiếu nại, tố cáo nặc danh, thời gian giải quyết. Vì vậy, vấn đề này đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 44 của Dự thảo Luật như sau:
"…
2. Trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử ngưng việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử. Trong trường hợp khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đủ tiêu chuẩn đại biểu, thì Hội đồng bầu cử các cấp quyết định xóa tên người đó trong danh sách ứng cử trước ngày bầu cử.
3. Không xem xét, giải quyết đối với những đơn khiếu nại, tố cáo nặc danh.
4. Hội đồng bầu cử chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đến Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp khóa mới để Hội đồng nhân dân giải quyết theo thẩm quyền."
Về cơ bản, ý kiến chung tán thành với nội dung sửa đổi, bổ sung đã nêu trên vì vấn đề này được ghi lại những quy định tương ứng trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, cũng có ý kiến băn khoăn cho rằng, từ thực tiễn tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội vừa qua có những vấn đề cần được nghiên cứu để xử lý khi sửa đổi, bổ sung Luật này. Chẳng hạn, về việc xóa tên ứng cử viên trước ngày bầu cử, việc xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với người trong danh sách ứng cử.
13. Về việc bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân
Theo quy định của Luật hiện hành thì “trong nhiệm kỳ, nếu đơn vị bầu cử nào khuyết đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể tổ chức bầu cử bổ sung theo thể thức bầu cử được quy định tại Luật này” (Điều 59). Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, quy định này không được áp dụng. Vì, quy định của Luật còn chung chung, chưa xác định rõ khi nào thì có thể bầu bổ sung. Hơn nữa, Luật chưa quy định một cách đầy đủ các trường hợp thành lập, sáp nhập, chia tách, thay đổi cấp đơn vị hành chính mà ở đó những đơn vị hành chính này còn thiếu bao nhiêu đại biểu Hội đồng nhân dân thì tổ chức cuộc bầu cử bổ sung. Nay, Điều 69 của Dự thảo Luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Nếu đơn vị hành chính mới được thành lập, sáp nhập, chia, tách hoặc được thay đổi cấp mà chưa đủ số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định thì tiến hành bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân.
Các ý kiến đều tán thành với việc sửa đổi, bổ sung như trên vì những đơn vị hành chính mới được thành lập, sáp nhập, chia tách hoặc được thay đổi cấp mà chưa có đủ số đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định thì nên tổ chức cuộc bầu cử bổ sung. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể đơn vị bầu cử thiếu bao nhiêu đại biểu và thời gian còn lại của nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân là bao nhiêu thì mới tiến hành tổ chức cuộc bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân.