Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM) cho rằng theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo, nếu không có đầy đủ chứng cứ chứng minh một người phạm tội một cách vững chắc thì phải thả. Điều này xuất phát từ cái gốc là nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng.
“Tương tự, khi hết thời hạn điều tra, truy tố, xét xử mà không chứng minh được tội phạm thì cơ quan tố tụng cũng phải thẳng thắn thừa nhận. Không nên cố đấm ăn xôi bằng cách dùng thủ thuật kéo dài vụ án nhằm chứng minh cho bằng được”, thẩm phán Hùng nói.
Ông Hùng cũng cho rằng thực chất nguyên tắc suy đoán vô tội là quan điểm nhìn nhận, đánh giá chứng cứ ở giai đoạn tố tụng nào cũng cần phải có. Đây là quá trình xuyên suốt tố tụng, không phải riêng cơ quan tố tụng nào đó mới có quyền áp dụng. Nếu cơ quan điều tra còn lừng khừng về chứng cứ thì không ra kết luận điều tra, nếu VKS còn băn khoăn việc này nọ thì không ra cáo trạng, nếu thấy chưa đủ chứng cứ thì tòa không kết tội.
Tại phiên trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội hồi tháng 6, Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Hòa Bình cũng đề xuất cần phải ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Ở các giai đoạn tố tụng, đến một thời hạn nào đó mà các cơ quan tố tụng không thể chứng minh được tội phạm thì phải xác định là bị can, bị cáo vô tội. Từ chỗ đang suy đoán có tội, nếu không đủ chứng cứ thì phải trở thành suy đoán vô tội. Khi nào phát hiện vụ án có tình tiết mới thì lại đưa ra xem xét chứ không thể kéo rê mãi.
Theo các chuyên gia, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành đã ghi nhận một số nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội (như không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa...) nhưng chưa đầy đủ. Điều cần đặt ra là phải ghi nhận đầy đủ nội dung của nguyên tắc này vào luật để có giá trị áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan tố tụng.
TS Nguyễn Duy Hưng (Trưởng khoa Luật Trường ĐH Thủ Dầu Một, Bình Dương) nói bị can, bị cáo cần phải được hưởng quyền suy đoán vô tội ở mức cao nhất. Quyền suy đoán vô tội cần phải là điều đầu tiên mà những người tiến hành tố tụng nghĩ tới khi thực thi nhiệm vụ. Có nghĩa là quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, người tiến hành tố tụng phải thu thập cả chứng cứ buộc tội lẫn gỡ tội chứ không phải chăm chăm tìm chứng cứ buộc tội, xem nhẹ và bỏ qua chứng cứ gỡ tội. Khi không đủ bằng chứng hoặc không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội.
“Thực tế đã chứng minh không phải lúc nào và ở đâu đánh giá của cơ quan tố tụng cũng đúng. Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải áp dụng triệt để tư duy suy đoán vô tội. Trên thế giới, nguyên tắc suy đoán vô tội đã được nhiều nước ghi nhận và là xương sống của các hoạt động tố tụng hình sự”, TS Hưng nói.
Các nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội - Không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa. Hình phạt là do tòa quyết định. Một người sẽ không phải chịu hình phạt nếu trong bản án kết tội của tòa đối với người đó tuyên miễn hình phạt. - Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, VKS. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. - Buộc tội phải dựa trên chứng cứ. Bản cáo trạng của VKS và bản án kết tội của tòa phải dựa trên các chứng cứ khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm. Mọi nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo nếu không thể loại trừ được theo trình tự, thủ tục luật định và khi chưa có sự thống nhất trong việc giải thích, áp dụng các quy phạm pháp luật đều phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ. Thạc sĩ Đinh Thế Hưng (Viện Nhà nước và Pháp luật) |
Theo Pháp luật TP HCM