Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can
149. Bị can Đinh Văn Được
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 4/5/1951 tại Long An
- ĐKNKTT: 141A Phan Đăng Lưu, phường 2, Phú Nhuận, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Phật
- Trình độ văn hóa: 10/12
- Con ông: Đinh Văn Thành (chết)
- Con bà: Hà Thị Diễm
- Vợ: Võ Thị Trên, vợ 2: Đỗ Thị Phương Nga
- Con: 4 người con, lớn nhất sinh 1971, nhỏ nhất sinh 1994
b. Quá trình hoạt động
Từ nhỏ đến 1968, ở với gia đình, học hết lớp 10 nghỉ. Từ 1969 đến 1975 làm thợ máy quân chủng hải quân chế độ cũ. Từ 1975 đến 1978 làm việc tại đoàn 175 hải quân nhân dân Việt Nam thuộc trung đoàn Sài Gòn, Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ 1978 đến 1987 làm tại Công ty ăn uống thuộc UBND quận Tân Bình. Từ 1987 đến 1991 làm tại Công ty ăn uống thuộc UBND quận Phú Nhuận. Từ 1991 đến 1994 kinh doanh nhà đất và cho thuê phòng. Từ 1994 đến nay thành lập doanh nghiệp tư nhân Sơn Lâm, kinh doanh khách sạn.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Tạm giam: 7/1/2002
c. Hành vi phạm tội
Từ năm 1998, Đinh Văn Được đã trực tiếp cho anh Nguyễn Thanh Liêm vay 40.000 USD, cho anh Hoàng Minh Chiếu vay 20.000 USD với lãi suất 5%/tháng, thu lời bất chính 33.500 USD. Đồng thời bàn bạc với vợ là Đỗ Thị Phương Nga cho 6 người vay lãi với số tiền 158 triệu và 62.500 USD, thu lợi bất chính 156.200.000 đồng và 33.500 USD.
Qua đấu tranh khai thác, Đinh Văn Được khai việc cho vay do vợ y là Đỗ Thị Phương Nga thực hiện nhưng qua điều tra, Cơ quan điều tra xác định vợ chồng Nga - Được có sự thống nhất bàn bạc, thỏa thuận cùng thực hiện trong việc cho vay lãi; cùng đi thu tiền lãi và đòi nợ. Khi bị hại không có tiền trả, Đinh Văn Được có hành vi đánh đập, đe dọa buộc bị hại phải tìm cách nộp tài sản cho vợ chồng Được để trừ nợ, điển hình như lấy của chị Huỳnh Thị Phước Hồng 1 giường, 1 tủ, 1 tượng phật bằng gỗ; lấy của chị Hà Thị Phong Điệp 1 xe máy Angel.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được và quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về lãi suất cho vay đối với tiền ngoại tệ và tiền Việt Nam, tại quyết định số 718/2001/QĐ ngày 29/5/2001 quy định mức lãi suất cho vay ngoại tệ không vượt quá 6%/năm. Thực tế vợ chồng Nga và Được đã cho vay lãi 60%/năm (gấp 10 lần lãi suất Ngân hàng quy định).
Hành vi của Đinh Văn Được đã phạm tội cho vay lãi nặng, tội danh quy định tại điều 163 BLHS.
Riêng đối với Đinh Văn Được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã phát hiện và thu giữ tại nhà Được một khẩu súng ngắn, ký hiệu “ROHM” kèm theo 9 viên đạn và băng tiếp đạn. Kết quả xác minh và giám định đã xác định: Tại bản kết luận giám định số 591-C21-C3 của Phân viện Khoa học hình sự xác định: Khẩu súng ngắn thu tại nhà Được gửi giám định là súng bán tự động “ROHM-RG 8000” cỡ nòng 80 ml do Đức sản xuất. Súng bắn bằng đạn hóa học gây cay, ngạt (chỉ sử dụng đạn chuyên dụng), không sử dụng được các loại đạn gây sát thương bằng đầu đạn, loại súng này được quản lý theo quy chế vũ khí vật liệu và công cụ hỗ trợ. Khẩu súng này là của chi nhánh Công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Hải Dương, chi nhánh này đã có quyết định giao cho Được quản lý và sử dụng kèm theo giấy phép sử dụng súng. Với các căn cứ trên không thấy đủ cơ sở kết luận bị can Đinh Văn Được phạm tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
Đối với hành vi tổ chức đánh bạc, qua công tác điều tra thu thập chứng cứ, khai thác các đối tượng trong vụ án đang điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an chưa phát hiện được tài liệu chứng minh cho hành vi tổ chức đánh bạc của Đinh Văn Được. Do đó không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Được về tội tổ chức đánh bạc.
Tài sản và tang vật thu giữ
- 47.000.000 đồng
- 16.399 USD
- 1 ĐTDĐ Nokia
- 1 máy bộ đàm
- 1 súng săn và 14 viên đạn
- 1 súng hơi cay và 2 băng đạn 9 viên
- 8,89 lượng vàng trang sức
- 1 dao găm
- 1 bộ bài
- 2 cuộn dây nilon
- 2 bộ quần áo rằn ri
150. Bị can Đỗ Thị Phương Nga
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 21/4/1962 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 141A Phan Đăng Lưu, phường 2, Phú Nhuận, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
-Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 9/12
- Cha: Đỗ Văn Tư (chết)
- Mẹ: Nguyễn Thị Phương Hải
- Chồng: Đinh Văn Được, bị can trong cùng vụ án
- Con: 2 người con, lớn nhất sinh 1987, nhỏ nhất sinh 1994
b. Quá trình hoạt động
Từ nhỏ đến 1980 được gia đình nuôi cho ăn học. Học hết lớp 9/12, sau đó bỏ học làm nghề ca sĩ tự do. Đến năm 1985 lấy chồng, tiếp tục làm ca sĩ đến năm 1993. Năm 1994 làm Phó giám đốc Công ty TNHH Sơn Lâm, kinh doanh khách sạn cho tới nay.
-Tiền án: Tháng 9/2002, TAND TP Hà Nội xử 24 tháng tù giam về tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trái phép.
- Tạm giam: 16/7/2002
c. Hành vi phạm tội
Từ 1997 đến 1998, Đỗ Thị Phương Nga cùng với chồng là Đinh Văn Được dùng số tiền 158.000.000 đồng và 62.500 USD để cho 6 người vay với lãi suất cao (60%/tháng), thu lợi bất chính 33.500 USD và 156.200.000 đồng. Ngoài ra, sau khi chồng Nga là Đinh Văn Được cho 2 người vay tổng số tiền 60.000 USD, Nga là người trực tiếp đứng ra nhận tiền lãi suất hàng tháng, thu lời bất chính 9.500 USD. Đỗ Thị Phương Nga thường lợi dụng hoàn cảnh của một số người gặp khó khăn để gợi ý cho vay lãi, đồng thời cấu kết với mẹ đẻ là Nguyễn Thị Phương Hải để thực hiện hành vi cho vay lãi nặng. Nếu những người vay không có tiền trả thì Nga dẫn họ đến nhà mẹ đẻ là Nguyễn Thị Phương Hải hoặc nhà em trai là Đỗ Đạt Giang tiếp tục cho vay với lãi suất cao nhằm thu được cả lãi và vốn, bằng cách đó làm cho những người chịu vay lãi nặng không thoát khỏi sự ràng buộc và trả lãi nặng cho gia đình Nga - Được. Khi những người vay tiền không có tiền trả, chúng đến xiết nợ bằng cách vơ vét tất cả đồ đạc trong nhà của họ để trừ nợ, điển hình như lấy của chị Huỳnh Thị Phước Hồng 1 giường, 1 tủ, 1 tượng phật bằng gỗ; lấy của chị Hà Thị Phong Điệp 1 xe máy Angel gây cho những người vay tiền gặp nhiều khó khăn, túng quẫn trong cuộc sống.
Qua đấu tranh khai thác, Đỗ Thị Phương Nga ngoan cố không chịu khai nhận tội. Tuy nhiên căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã thu thập được, lời khai của các bị hại, sổ sách giấy tờ thu thập được khi khám xét của nhà Nga và công văn trả lời của Ngân hàng nhà nước Việt Nam xác định mức lãi suất cao nhất đối với từng thời điểm, đã có đủ cơ sở kết luận Đỗ Thị Phương Nga đã phạm tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại điều 163 BLHS.
Tài sản và vật chứng thu giữ
- 2.700 USD
- 1 túi giấy tờ sổ sách
151. Bị can Nguyễn Thị Phương Hải
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 24/12/1935 tại Hà Nội
- ĐKNKTT: 141A Phan Đăng Lưu, phường 2, Phú Nhuận, TP HCM
- Chỗ ở: 21/11 Trường Sơn, phường 4, Tân Bình, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 5/12
- Cha: Nguyễn Viết Ninh (chết)
- Mẹ: Nguyễn Thị Phương (chết)
- Chồng: Đỗ Văn Tư
- Con: 12 người con, lớn nhất sinh 1956, nhỏ nhất sinh 1976
b. Quá trình hoạt động
Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 5. Năm 1949 theo gia đình vào TP HCM, từ đó cho đến nay buôn bán tự do.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
c. Hành vi phạm tội
Căn cứ tài liệu, chứng cứ đã thu được, Cơ quan điều tra đã có đủ cơ sở xác định từ 1997 đến 1998, Nguyễn Thị Phương Hải đã dùng số tiền 464.000.000 đồng để cho 6 bị hại vay lãi nặng (60%/tháng) thu lợi bất chính 398.300.000 đồng.
Hành vi của Nguyễn Thị Phương Hải kéo dài nhiều năm, bóc lột sức lao động của nhiều người làm cho nhiều gia đình không có điều kiện trả nợ dẫn đến phá sản và tan nát nhà cửa. Khi các bị hại không có tiền trả thì Hải đã cho con đến siết tài sản, điển hình như việc đến nhà chị Đào Minh Nhung ở 207 Lô N, cư xá Thanh Đa, cưỡng đoạt 1 tivi màu và 1 dàn nhạc.
Căn cứ vào chứng cứ đã thu thập được, lời khai các bị hại và kết quả xác định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại công văn số 357/NHTP 2002 cung cấp lãi suất cho vay trong từng thời điểm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ công an có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Thị Phương Hải phạm tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại điều 163 BLHS.
Ngoài ra chị Đỗ Thị Thúy Hải ở số 320 lô H, cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM khai nhận cho Hải vay 395 đồng với lãi suất 8%/tháng. Các lần vay đều có giấy biên nhận, nhưng Hải mới trả được 1 tháng lãi của biên nhận ngày 1/1/1998 là 8 triệu đồng tiền lãi, từ đó không trả lãi nữa. Hải đã dùng số tiền trên để vay kiếm lời, chị Đỗ Thị Thúy Hải khai nhận Hải đã có ý đồ chiếm đoạt số tiền 405 triệu đồng nên đã dùng thủ đoạn “dụ” chị Hải chuyển số tiền vay lãi sang đóng “hụi”, khi đã chuyển số tiền vay lãi sang đóng “hụi”, khi đã chuyển số tiền vay lãi sang đóng “hụi”, Hải chỉ góp được 1 dây là 65 triệu đồng. Số tiền này đến nay vẫn chưa trả. Căn cứ vào quá trình điều tra thu thập chứng cứ thấy việc vay nợ và chuyển sang chơi hụi hoàn toàn có sự tự nguyện của chị Đỗ Thị Thúy Hải nên chưa đủ căn cứ để khởi tố Nguyễn Thị Phương Hải về hành vi này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã chuyển tài liệu cho tòa án xử lý theo thủ tục tranh chấp dân sự.
Tài sản và tang vật thu giữ: 8 sổ ghi tiền cho vay lãi.
152. Bị can Nguyễn Thị Kiệm (Ba Kiệm)
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 19/2/1936 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 220GH Hai Bà Trưng, Tân Định, quận 1, TP HCM
- Trình độ văn hóa: Không biết chữ
- Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Phật giáo
- Con ông: Nguyễn Văn Minh (chết)
- Con bà: Nguyễn Thị Chanh (chết)
- Chồng: Hồ Văn Đực, 74 tuổi (đã ly dị 30 năm)
- Có 7 người con, trong đó có Hồ Văn Phú Ba là bị can cùng vụ án.
b. Quá trình hoạt động
Từ năm 1936 đến 1989: còn nhỏ và buôn bán tại quận 4, TP HCM. Từ năm 1989 đến 1992: ngụ tại 128/67 Đoàn Văn Bơ, phường 9, quận 4. Từ năm 1992 đến 1995: ngụ tại 257 đường 3/2, phường 10, quận 10. Từ năm 1995 đến ngày 6/1/2002: ngụ tại 220GH Hai Bà Trưng, Tân Định Q1- TP. Hồ Chí Minh. Ngày 29/12/1998 bị Công an TP. Hồ Chí Minh bắt trong sòng bạc Nguyễn Văn Sy (Bảy Sy) nhưng không đủ chứng cứ phạm tội nên Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Tạm giam: 6/1/2002
c. Hành vi phạm tội
* Hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc của Nguyễn Thị Kiệm
Cuối năm 1999, bị can Nguyễn Thị Kiệm tham gia đánh bài xóc đĩa tại sòng bạc số 74/18 Trần Nguyên Hãn, quận 8 khoảng nửa tháng. Mỗi ván đặt ít nhất là 50.000 đồng và nhiều nhất là 150.000 đồng. Tổng cộng đã đánh thua hết khoảng 13 triệu đồng. Tham gia góp vốn làm cái 20 triệu đồng nhưng bị can khai không được chia lời phần nào. Căn cứ lời khai của Nguyễn Văn Nhã, cứ 10 triệu đồng (10 phần hùn) trong thời gian 4,5 tháng được chia lời 20 triệu đồng. Như vậy, Nguyễn Thị Kiệm góp 20 triệu đồng, được chia lời 40 triệu đồng. (BL số 21,22-V4. Tập 74)
Tháng 9/2001, bị can Kiệm tham gia đánh bạc xóc đĩa tại 1102 Tự Lập, Tân Bình một ngày, đặt mỗi ván 50.000 đồng, tổng cộng bị thua 50.000 đồng và tham gia góp vốn làm cái 20 triệu đồng bị can khai nhận được chia lời 14 triệu đồng. (BL số 21,22 -V4. Tập 74 và số 1108 -V4. Tập 13)
- Ngày 29/9/2001 đến 9/10/2001, sòng bạc dời về số 74/18 Trần Nguyên Hãn, quận 8, Kiệm vẫn góp vốn 20 triệu đồng và được chia 3.380.000đ tiền lời. Bị can Nguyễn Thị Kiệm không khai nhận việc tham gia góp vốn 20 triệu đồng tại sòng bạc xóc đĩa ở số 27/23 và 27/6 đường Văn Thân, phường 7, quận 6, nhưng lời khai của Nguyễn Thị Kim Phượng, Tạ Đắc Lung, Triệu Tô Hà có đủ cơ sở kết luận Kiệm góp vốn làm cái tại sòng bạc nêu trên. Nhưng không xác định được phần lời được chia. (BL số 21,22 -V4. Tập 74 và số 1108- V4. Tập 13)
Tổng cộng, Nguyễn Thị Kiệm được chia lời do góp vốn trong các sòng bạc là 57.380.000 đồng.
* Hành vi cho vay nặng lãi của Nguyễn Thị Kiệm
Căn cứ sổ sách thu được tại nhà Nguyễn Thị Kiệm và lời khai của bị can Nguyễn Thị Kiệm và những người vay nợ: Từ năm 1998 đến tháng 12/2001 Nguyễn Thị Kiệm cho 32 người vay nặng lãi với lãi suất từ 10%/tháng đến 30%/tháng cao hơn 10 lần lãi suất quy định cho vay của Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm cho vay (mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cho vay lãi nặng) với các hình thức cho vay và Nguyễn Thị Kiệm khai như sau:
- Cho vay trả góp: cho con nợ vay vốn và lãi thỏa thuận trong thời gian một hai tháng, hằng ngày phải nộp trả góp tiền nợ cho Kiệm. Nếu trả trong 30 ngày thì lãi suất 20%/tháng, 40 ngày thì lãi suất 15%/tháng, 60 ngày thì lãi suất 10%/tháng. (BL số 784 -V15 Tập 9)
- Cho vay trả lãi hàng tháng: áp dụng đối với những người kinh doanh có tài sản thế chấp và vay nhiều tiền. Lãi suất được tính từ 10% đến 15% một tháng. ( BL số 784 -V15 Tập 9)
- Cho vay đứng: Con nợ vay vốn phải đóng tiền lời mỗi ngày cho đến khi trả được vốn và cho vay nóng đối với những người vay tiền ngân hàng đến kỳ hạn giải chấp nhưng không đủ tiền trả nợ, phải vay tiền của Nguyễn Thị Kiệm để giải chấp ngân hàng lấy giấy tờ nhà đất đem đi thế chấp ngân hàng khác vay tiền trả lại cho Nguyễn Thị Kiệm. Với hình thức cho vay này Nguyễn Thị Kiệm tính lãi suất 1% một ngày tương đương 30% một tháng và đã cho 4 người vay tổng số tiền 4.000.000.000 đồng đã thu lời bất chính 207 triệu đồng. (BL số 784, 785 -V15 Tập 9)
Nguyễn Thị Kiệm đã cho 32 người vay tổng số tiền 12.790.000.000 (mười hai tỷ bảy trăm chín mươi triệu) đồng, thu lợi bất chính số tiền 1.858.650.000 (một tỷ tám trăm năm mươi tám triệu sáu trăm năm mươi nghìn) đồng, đã thực thu số tiền lãi là 963.500.000 (chín trăm sáu mươi ba triệu năm trăm nghìn) đồng.
Nhiều tên tham gia tổ chức đánh bạc và đánh bạc như: Đoàn Minh Chánh, Nguyễn Văn Lắn (Lũng Đầu Bò), Nguyễn Văn Sy, Phạm Văn Minh… là con nợ của Nguyễn Thị Kiệm.
Nguyễn Thị Kiệm không biết chữ, sử dụng con ruột là Hồ Văn Phú Ba giúp việc ghi chép sổ sách cho vay, kiểm tra giấy tờ, tài sản thế chấp, liên hệ giải chấp tài sản tại ngân hàng, thu nợ, thu lãi. Trần Anh Tú làm môi giới, giới thiệu những người vay tiền đến vay tiền của Nguyễn Thị Kiệm. Nguyễn Thị Kiệm hằng ngày giao dịch với con nợ, tính lãi suất hoặc định giá tài sản, xuất tiền cho vay. ( BL số 784 -V15 Tập 9)
Cơ quan điều tra đã được Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn chi nhánh Sài Gòn giúp xác định lãi suất cho vay trả góp của bị can Nguyễn Thị Kiệm như sau: Lãi suất trả góp trong 20 ngày là 30%/tháng; 30 ngày là 20%/tháng; 40 ngày là 15%/tháng; 48 ngày là 12,5%/tháng; 60 ngày là 10%/tháng. (BL số 1001, 1002, 1003, 1004 -V15 Tập 9)
Ngoài ra, Nguyễn Thị Kiệm còn cho 17 người vay tiền, lãi suất từ 3 đến 10%. Với lãi suất cho vay này so với lãi suất ngân hàng cùng thời điểm, Kiệm chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng số tiền cho vay là: 3.208.800.000 đồng và 130 lượng vàng. Đã thu lời 518.800.000 đồng và 13,5 lượng vàng. (BL số 1005, 1006 -V15 Tập 9)
- Số tiền vốn các con nợ vay chưa trả Nguyễn Thị Kiệm là: 3.588.600.000 đồng (ba tỷ năm trăm tám mươi tám triệu sáu trăm nghìn) và 130 (một trăm ba mươi) lượng vàng, Cơ quan điều tra yêu cầu những người còn nợ nộp số tiền còn lại của Kiệm nhưng họ chưa có khả năng nộp, chỉ làm cam kết sẽ nộp lại.
Nguyễn Thị Kiệm còn nhận thế chấp, cho vay, cầm cố một số nhà như: Nhà 20/5 đường 5, phường Tân Kiểng, quận 7, nhà 433/26 đường Lê Đại Hành phường 11, quận 11 và một số người vay nợ. Quá trình điều tra chưa đủ cơ sở kết luận Nguyễn Thị Kiệm cho vay nặng lãi dẫn đến việc xiết nợ những căn nhà trên.
Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc, cho vay lãi nặng của bị can Nguyễn Thị Kiệm đã phạm vào các điều 249, 248, 163 của BLHS nước CHXHCNVN.
Tài sản kê biên gồm
+ Nhà 220GH Hai Bà Trưng, Tân Định, quận 1
+ Nhà 20/2 đường số 5, Tân Kiểng, quận 7
+ Nhà 309/53 Cách Mạng Tháng 8, phường 12, quận 10
Vật chứng tạm giữ
+ Tiền Ngân hàng Việt Nam: 315 triệu đồng
+ 20.000AUD
+ 29.730 USD
+ Vàng: 61 lượng
+ 2 xe ô tô: Biển số 64H -914 và 52N-4854
153. Bị can Hồ Văn Phú Ba (Bé Ba)
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 14/4/1967 tại TP HCM
- ĐKNKTT: Số 20/2 đường số 5, khu phố 3, Tân Kiểng, quận 7, TP HCM
- Chỗ ở: 220GH Hai Bà Trưng, phường Tân Định, quận 1, TP HCM
- Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Trình độ văn hóa: 12/12
- Con ông: Hồ Văn Đực
- Con bà: Nguyễn Thị Kiệm (bị can cùng vụ án)
- Vợ: Trần Thị Kim Bích
b. Quá trình hoạt động
Từ nhỏ đến 1977: sống với mẹ nuôi là bà Trần Thị Bê, ngụ 99 cư xá Khánh Hội, quận 4, TP HCM, đi học đến lớp 4 tại trường Chi Lăng, phường 9, quận 4. Từ năm 1977 đến 1984: Sống với mẹ nuôi (Trần Thị Bê) tại ấp 5, xã Quới Tây, Bình Đại, Bến Tre; đi học hết lớp 12. Tháng 2/1985 đến 10/1988 đi nghĩa vụ quân sự. Tháng 11/1988 đến 1/1989: ngụ tại ấp 5, xã Quới Tây, Bình Đại, Bến Tre. Từ năm 1989 đến 1992: Về sống với mẹ ruột (Nguyễn Thị Kiệm) tại số 128/69 Đoàn Văn Bơ, phường 9, quận 4 và phụ giúp mẹ ruột đi thu tiền hụi. Từ năm 1992 đến 1996: Giám đốc khách sạn Hồng Phú, số 61 Đào Duy Từ, phường 5, quận 10. Năm 1997: Kinh doanh nhà hàng Kim Hạnh ở quốc lộ 1A, phường 7, thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Cuối 1997 đến 10/2001: Ngụ 61 Đào Duy Từ, phường 5, quận 10, hùn dịch vụ giới thiệu cho vay giải chấp đảo nợ ngân hàng và phụ mẹ ruột là Nguyễn Thị Kiệm cho vay nặng lãi. Từ 10/2001 đến nay: Cưới vợ chuyển về ngụ tại 220GH Hai Bà Trưng, phường Tân Định, quận 1, phụ giúp mẹ ruột thu tiền hụi, tiền vay.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Tạm giam: 15/3/2002
c. Hành vi phạm tội
- Hồ Văn Phú Ba (Bé Ba) là người giúp sức đắc lực cho Nguyễn Thị Kiệm trong việc cho vay nặng lãi, với vai trò ghi chép sổ sách cho vay tiền, trực tiếp đi thu tiền nợ, tiền lời, cùng với người vay tiền đến ngân hàng làm thủ tục giải chấp đảo nợ.
Trong quá trình điều tra, bị can Hồ Văn Phú Ba cố tình che giấu hành vi cho vay nặng lãi. Nhưng qua lời khai của những người vay nợ và các cuốn sổ ghi chép việc cho vay nặng lãi thu được tại nhà Kiệm có đủ căn cứ kết luận Hồ Văn Phú Ba trực tiếp cùng Nguyễn Thị Kiệm cho vay nặng lãi số tiền 6.789.900.000 đồng và trực tiếp cùng người vay đến ngân hàng cho vay tiền giải chấp là 3.950.000.000 đồng, Ngoài ra trong việc cùng người vay đến ngân hàng cho vay đảo nợ, Hồ Văn Phú Ba còn được hưởng riêng số tiền hoa hồng là: 88.000.000 đồng. (BL số 1077 -V15 T10)
Khi Nguyễn Thị Kiệm (mẹ ruột Phú Ba) bị bắt, Phú Ba trực tiếp đến các con nợ thu tiền, hăm dọa, khống chế không cho các con nợ khai báo đúng sự thật với Cơ quan điều tra cụ thể như: hăm dọa buộc Huỳnh Hoa Hạnh ngụ tại H89 Nguyễn Tri Phương, Thủ Dầu Một, Bình Dương phải đóng 25 triệu tiền lãi trong khoảng vay 500 triệu đồng và buộc Hạnh không khai với Cơ quan điều tra khoản vay 300 triệu đồng lãi suất 7%/tháng bằng việc vay thế chấp nhà. Ép buộc Phan Trung Hiếu ngụ tại chung cư 72 Hùng Vương, phường 9, quận 5, nộp tiền lãi trong khoản vay 30 triệu đồng lãi suất 8%/tháng. (BL: 1037, 1038 -V15 T10)
Hồ Văn Phú Ba còn khai nhận: Năm 1998, Phú Ba cùng anh ruột là Hồ Văn Quý mua một chiếc xe ôtô hiệu Toyota Lexus không giấy tờ, sau đó thuê Nguyễn Anh Dũng làm hồ sơ giả đăng ký xe mang biển số 64H 1914. Chiếc xe này liên quan đến vụ án buôn lậu xe ô tô do cục Cảnh sát Điều tra Bộ Công an đang thụ lý. Phần giấy tờ giả đăng ký xe ô tô nói trên cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an tiếp tục điều tra.
Hành vi cho vay lãi nặng của bị can Hồ Văn Phú Ba đã phạm vào điều 163 của BLHS nước CHXHCNVN.
154. Bị can Trần Anh Tú (Tú Anh)
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 30/12/1965 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 44 Phong Phú, phường 12, quận 8, TP HCM
- Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 10/12
- Con ông: Trần Anh Tuấn, sinh 1945
- Con bà: Nguyễn Thị Tám, sinh 1941
- Vợ: Đoàn Thị Ngọc Minh, sinh 1961
- Có 2 con: Lớn nhất 13 tuổi, nhỏ nhất 5 tuổi
b. Quá trình hoạt động
Từ năm 1965 đến 1981: Ở với gia đình, đi học phổ thông đến lớp 10/12. Từ năm 1982 đến 1984: Học trường Công nhân Kỹ thuật tại Thủ Đức, làm công nhân tại Nhà máy hóa chất Biên Hòa, Đồng Nai. Từ năm 1985 đến 1989: Buôn bán. Tháng 9/1990 đến 11/1994: Vượt biên sang Thái Lan. Từ năm 1994 đến 2002: Hồi hương về Việt Nam, cư ngụ tại 44 Phong Phú, phường 12, quận 8, không nghề nghiệp ổn định.
Tiền án - tiền sự
- Ngày 21/5/1991: Công an tỉnh Bến Tre truy nã về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (mua xe du lịch không trả tiền).
- Tháng 11/1994 ra đầu thú và khắc phục hậu quả, ngày 5/4/1995 Công an tỉnh Bến Tre đình chỉ điều tra.
- Bị can tại ngoại.
c. Hành vi phạm tội
Từ năm 1998, Trần Anh Tú quen với Hồ Văn Phú Ba (Bé Ba, con ruột bị can Nguyễn Thị Kiệm). Do biết được Nguyễn Thị Kiệm cho vay tiền lấy lãi nên Trần Anh Tú đã giới thiệu người đến vay tiền của Kiệm để hưởng tiền hoa hồng hoặc hưởng tiền chênh lệch tiền lãi thu được. Trong quá trình môi giới để Kiệm cho vay tiền, Trần Anh Tú (cùng với Bé Ba) còn trực tiếp giúp sức cho Kiệm trong việc giao nhận tiền vay, đi theo thu lãi…
Từ năm 1999 đến 2001, Trần Anh Tú giới thiệu 5 người đến vay tiền của Kiệm với lãi suất từ 5%/tháng đến 30%/tháng; Tổng số tiền vốn Tú môi giới cho Kiệm cho vay là 3.110.000.000 đồng và Trần Anh Tú thu lợi được số tiền là 35.500.000 đồng. Trong đó, số tiền cho vay đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi cho vay lãi nặng là 450.000.000 đồng, số tiền lãi Trần Anh Tú thu lợi bất chính là 18.000.000 đồng. (BL số 1145 -V15 Tập 11)
Ngoài ra, Trần Anh Tú còn môi giới và giúp sức Phạm Thị Hoàng Nga (sinh năm 1953, ngụ 489A/19A Huỳnh Văn Bánh, phường 13, Phú Nhuận) cho vay lãi nặng 2 người với tổng số tiền cho vay là 3.550.000.000 đồng, lãi suất cho vay từ 24% đến 30%/tháng. Nga thu lợi bất chính được 247.500.000 đồng và chia cho Tú 27.000.000 đồng. Trong số người vay tiền của Nga là Lê Văn Tài (cũng là con nợ của Kiệm), ngụ tại Phan Thiết, Bình Thuận chưa trả tiền vốn cho Nga. Vì vậy Nga gởi đơn tố cáo Lê Văn Tài chiếm đoạt tài sản đến Công an tỉnh Bình Thuận (hiện nay Cơ quan Điều tra Công an Bình Thuận đang thụ lý). Do đó, Cơ quan Điều tra đã có công văn đề nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Bình Thuận điều tra làm rõ hành vi cho vay lãi nặng của Phạm Thị Hoàng Nga và Trần Anh Tú.
Ngoài việc môi giới cho vay tiền, Trần Anh Tú cùng với Hồ Văn Phú Ba còn làm dịch vụ vay tiền ngân hàng cho Trần Bích Đài với tổng số tiền vay là 6.000.000.000 đồng (vay tại ngân hàng Công thương - chi nhánh 14 - Thủ Đức). Trần Anh Tú hưởng lợi số tiền 25.000.000 đồng.
Trần Anh Tú khai nhận tổng số tiền Tú được hưởng lợi do môi giới cho vay lãi nặng, môi giới cho vay tiền ngân hàng là 87.500.000 đồng. Trong đó tiền hưởng lợi do môi giới cho Nguyễn Thị Kiệm cho vay lãi nặng phải chịu trách nhiệm hình sự là 18.000.000 đồng; môi giới cho Phạm Thị Hoàng Nga cho vay lãi nặng Tú được hưởng 27.000.000 đồng; môi giới cho Trần Bích Đài vay thế chấp ngân hàng Tú được hưởng 25.000.000 đồng. (BL số 1138, 1139, 1140 -V15 Tập 11)
Tú đã nộp cho cơ quan điều tra 15.000.000 đồng, trong số tiền Tú hưởng lợi bất chính do môi giới cho vay lãi nặng.
Hành vi cho vay lãi nặng của bị can Trần Anh Tú đã phạm vào điều 163 của BLHS nước CHXHCNVN.
155. Bị can Phạm Thị Lượng (cô Mười, Mười "Olympic")
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 1/1/1931 tại Tiền Giang
- ĐKNKTT: 223E Cống Quỳnh, Nguyễn Cư Trinh, quận 1, TP HCM
- Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Phật
- Trình độ văn hóa: Không biết chữ
- Con ông: Phạm Văn Thìn (chết)
- Con bà: Nguyễn Thị Hạnh (chết)
- Chồng: Nhan Văn Được (chết)
- Con nuôi: 2 người (lớn sinh năm 1960, nhỏ sinh 1986)
b. Quá trình hoạt động
Từ năm 1931 đến 1949: Ở với cha mẹ tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, phụ giúp gia đình. Từ năm 1950 đến 1954: Đi làm thuê. Từ năm 1954 đến 1957: Học nghề y tá, ngụ tại 134/4 Bùi Thị Xuân, quận 2, Sài Gòn. Từ năm 1958 đến 1993: Bán đồ cũ, ngụ tại 282/5C1 Cống Quỳnh, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1. Từ năm 1993 đến 2002: ngụ tại 223E Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, buôn bán giải khát tại nhà, chơi hụi và cho vay lãi nặng.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không.
- Bị can tại ngoại.
c. Hành vi phạm tội
Cuối năm 1999, Phạm Thị Lượng đến sòng bạc 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 đánh xóc đĩa ăn tiền. Mỗi ván đặt 150.000 đồng (một trăm năm chục nghìn). Tham gia đánh bạc 7 ngày, tổng cộng bị thua khoảng 600.000 đồng (sáu trăm nghìn).
Tháng 9/2001, Lượng đến sòng bạc 1102 đường Tự Lập, Phường 4, Tân Bình thu tiền cho vay lãi nặng và đánh xóc đĩa 1 lần đặt 150.000 đồng (một trăm năm chục nghìn), thắng được 90.000 đồng (chín chục nghìn) thì nghỉ. Sau đó đến sòng lắc me của Đoàn Minh Chánh (Tư Chánh) tại Đầm Diều, quận 8 đánh bạc. Trung bình 2-3 ngày đến một lần, tham gia đánh bạc được khoảng 10 lần, thua 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn). (BL: V4 T31: 2170, 2171)
Quá trình tham gia đánh bạc, Lượng còn cho các con bạc vay tiền để đánh bạc với hình thức vay trả góp ngày. Lãi suất từ 3% đến 5%/tháng đối với vàng; từ 18,79% đến 36,57%/tháng đối với tiền Việt Nam.
Tổng số 10 người vay tiền của Phạm Thị Lượng (nêu ở phần nội dung vụ án), có đủ căn cứ kết luận Phạm Thị Lượng cho 6 người vay lãi nặng với tổng số tiền cho vay là 308.000.000 đồng, đã thu lời 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu), lãi suất từ 10% đến 20%/tháng; 4 người vay lãi suất từ 3% đến 8,76%/tháng với tổng số tiền là 370.000.000 đồng và 80 lượng vàng với số tiền lời đã thu là 36 (ba mươi sáu) chỉ vàng và 10.000.000 (mười triệu) đồng. (BL: V4 T31: 2174, 2175, 2176)
Ngoài ra Phạm Thị Lượng còn khai nhận cho các con bạc khác vay mượn tại sòng lắc me quận 8 mỗi lần từ 1.000.000 (một triệu) đồng đến 10.000.000 đồng (mười triệu), lãi suất từ 5% đến 10% 1 tháng như: Bánh “Bao” vay 10.000.000 đồng (mười triệu); Lập 1.000.000 (một triệu) đồng; bà Bảy 5.000.000 (năm triệu) đồng; cô Anh 10.000.000 đồng (mười triệu),… nhưng do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên chưa đủ cơ sở kết luận.
Tại cơ quan điều tra, bị can Lượng thừa nhận việc cho vay nói trên và có ghi chép vào sổ sách theo dõi thu lãi hằng ngày và hằng tháng nhưng đã đốt tiêu hủy sổ sách nhằm phi tang chứng cứ.
Hành vi đánh bạc, cho vay lãi nặng của bị can Phạm Thị Lượng đã phạm vào các điều 248, 163 của BLHS nước CHXHCNVN.
Vật chứng thu giữ: 15.000.000 đồng và 4,3 (bốn lượng ba chỉ) lượng vàng.
Tài sản kê biên: Nhà số 223E Cống Quỳnh, Nguyễn Cư Trinh, quận 1.
Còn nữa