Vidamco cũng như các hãng xe khác đều bán được ít xe hơn năm 2003. Ảnh: Thành Lê |
Theo số liệu của VAMA, cho đến hết tháng 6, lượng xe mà 11 liên doanh bán ra đạt con số 12.790 xe, ít hơn cùng thời điểm năm ngoái 2.949 xe. Trong số bị hụt đi, phần lớn là xe dưới 5 chỗ ngồi. Đây cũng là kiểu xe mà có mức thuế tiêu thụ đặc biệt tăng cao nhất. Trong suốt 6 tháng, Mercedes-Benz Việt Nam chỉ bán được 15 chiếc E240, xe đắt nhất trong nước hiện nay với giá 99.900 USD (năm ngoái là 89 xe). Tính tổng cộng, nửa đầu năm nay, số lượng xe dưới 5 chỗ được tiêu thụ là 7.015 xe, so với con số 10.043 xe của năm ngoái đã giảm tới 30% (3.028 xe). Thị trường dành cho xe đa dụng (xe 7-8 chỗ) cũng bị thu hẹp, giảm 18%, xuống còn 955 xe (ít hơn năm ngoái 216 xe).
Toyota Việt Nam vẫn là liên doanh đi đầu, chiếm 31,5% số ôtô bán ra (4.035 xe). Tiếp đó là Vidamco (14,3%) và thứ ba Ford Việt Nam (13,5%). Vị trí thứ nhì cho thấy một nỗ lực lớn của Vidamco vì toàn bộ các sản phẩm của công ty đều là xe 4 hoặc 5 chỗ ngồi. Vidamco có tới 4 mẫu sedan khác nhau, nhiều nhất trong số 11 liên doanh.
Nhìn tổng thể, dù bán ít xe hơn nhưng nhu cầu của thị trường ôtô trong nước vẫn không hề yếu đi. Chỉ tính riêng lượng xe chuyên dùng cho mục đích kinh doanh (gồm có xe chở khách trên từ 12 chỗ trở lên và xe tải) trong 6 tháng đầu năm nhiều hơn giai đoạn này một năm trước là 295 xe. Ford Việt Nam bán được 445 xe Transit 16 chỗ, gấp 4 lần hai quý đầu năm ngoái (112 xe). Nguyên nhân chính giúp Visuco giữ vị trí thứ tư trong 6 tháng qua về lượng xe bán ra là thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) với xe tải không tăng. Nhờ vậy, Visuco bán được 989 xe Carry Truck, xe có trọng tải một tấn, chiếm 63% toàn bộ số xe của Visuco bán ra trong vòng 6 tháng.
Có thể thấy rằng tình hình tiêu thụ ôtô trong nước không đến nỗi bi quan như nhận định nhiều của chuyên gia các hãng xe. Theo như ước tính trước đây của VAMA, trong năm nay, lượng xe mà 11 công ty trong hiệp hội bán ra có thể chỉ bằng nửa con số của năm 2003, tức là chỉ vào khoảng 22.000-24.000 xe, tương đương với năm 2002. Tuy vậy, trong 6 tháng đầu năm, thời điểm không phải là mùa thu hoạch của thị trường ôtô, số lượng khách hàng chỉ giảm gần 19%.
Đó là nhờ các hãng xe đã nỗ lực không ít trong việc tung ra các chương trình khuyến mại. Thêm nữa, từ đầu năm 2004, lượng xe mới được đưa ra thị trường không ít. Tổng cộng có 7 công ty đã đưa 9 mẫu xe mới, chưa kể xe sedan C240 của Mercedes được tung ra nửa tháng trước khi bước sang năm mới 2004. Nếu tính tất cả các phiên bản (khác nhau về động cơ hoặc trang bị, như Toyota Camry có loại 3.0 V6 và loại 2.4G), thì có tới 15 mẫu xe mới.
Vẫn còn nhiều mối lo
Trong nửa đầu năm nay, dù chưa có những biến động lớn nhưng điều đó không đồng nghĩa với những dấu hiệu khả quan của thị trường nội địa trong tương lai. Những sự so sánh chỉ là tương đối vì trong nửa đầu năm 2003, lượng ôtô tiêu thụ (15.739 xe) chỉ chiếm khoảng 40% của cả năm. Với mức giá tăng cao như hiện nay, không có gì đảm bảo trong 6 tháng còn lại của năm nay, các hãng ôtô trong nước sẽ tăng được thị phần lên gấp rưỡi như năm 2003.
Theo Bộ Tài chính, việc giá xe tăng giá ôtô tăng cao là do các nhà sản xuất lợi dụng tâm lý người tiêu dùng đổ xô đi mua xe trước khi giá tăng chứ không hề do sự điều chỉnh thuế. Bộ Tài chính lý luận rằng, nhiều hãng xe hạ giá bán trước thuế thấp hơn năm 2003, điều này cho thấy nhà sản xuất ôtô có khả năng giữ nguyên giá bán, chứ không phải chịu lỗ hoặc phải tăng giá khi chính sách thuế thay đổi.
Ngược lại, các nhà sản xuất lại cho rằng lỗi thuộc về phía những người hoạch định chính sách. Theo ông Kazuo Tsukahara, Tổng giám đốc Vinastar, hãng chế tạo xe mang nhãn hiệu Mitsubishi, "nếu giá đột ngột tăng 34% để bằng mức tăng của thuế, lượng xe bán ra sẽ bằng không", vì thế các hãng xe chỉ tăng giá bán hơn 20% và chịu lỗ phần còn lại. Tất cả các công ty ôtô đều khẳng định, đối tượng phải chịu ảnh hưởng của việc thuế tăng khách hàng, còn nhà sản xuất chỉ chịu trách nhiệm "thu thuế hộ Nhà nước", như lời của Tổng giám đốc Mercedes-Benz Việt Nam Thomas Krapp.
Trong khi đó, trong một bài phỏng vấn mới đây trên VnExpress, ông Phan Đăng Tuất, Viện trưởng chiến lược Chính sách, Bộ Công nghiệp, cho biết, Chính phủ sẽ duy trì mức thuế cao đối với ôtô nhằm bảo hộ cho ngành công nghiệp trong nước, đồng thời hạn chế tiêu thụ mặt hàng "xa xỉ" này. Và như vậy, triển vọng được sử dụng xe giá thấp với người dân dường như vẫn còn quá xa vời. Hồi tháng 7/2003, Toyota tung ra chiếc xe sedan hạng nhỏ Vios với giá 19.800 USD đã được coi là sự đột phá trên thị trường. Nhưng chỉ sau hơn 4 tháng, chiếc xe này đã tăng lên thành 24.800, tức là đắt hơn 25%.
Một vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà quản lý và các hãng xe hiện nay là cách tính tỷ lệ nội địa hoá. Ngay khi có dự thảo phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hóa đối với ôtô của Bộ Khoa học Công nghệ (đã được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn), các công ty ôtô trong nước lập tức phản ứng. Ý kiến chung cho rằng, cách tính này rất phức tạp và đi ngược lại quy định đang được ASEAN áp dụng. Hầu hết các nước ASEAN đã loại bỏ cách tính tỷ lệ nội địa hoá theo điểm từ trước năm 2000.
Nhưng đó không phải là quan điểm của Bộ Khoa học Công nghệ. "Thực tế của ASEAN không phù hợp với Việt Nam bởi công nghiệp ôtô của họ đã đi trước ta cách đây đến 40-50 năm. Nay đi theo họ, suốt đời Việt Nam chỉ lắp ráp", ông Đoàn Năng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế của bộ, cho biết.
Số xe các liên doanh tiêu thụ trong tháng 6 tháng đầu năm 2004 | |||
TT | Hãng | Số lượng (xe) | Thị phần (%) |
1 | Toyota | 4.035 | 31,5 |
2 | Vidamco | 1.826 | 14,3 |
3 | Ford | 1.723 | 13,5 |
4 | Visuco | 1.562 | 12,2 |
5 | Vinastar | 964 | 7,5 |
6 | Isuzu | 869 | 6,8 |
7 | Mercedes | 673 | 5,3 |
8 | VMC | 444 | 3,5 |
9 | Mekong | 312 | 2,4 |
10 | Vindaco | 284 | 2,2 |
11 | Hino | 98 | 0,8 |
Tổng |
12.790 | 100 |
Thế Phong