Có thể ai đó trong số chúng ta đã gặp một người trong những đường dây chạy chứng chỉ. Đó là một cô sinh viên sư phạm, người sẽ nhận 2 triệu cho một lần đi thi thuê ngoại ngữ. Cô đến từ một tỉnh miền núi phía Bắc, cha mẹ làm công nhân. Người ta đưa cho cô một chứng minh thư giả, có ảnh của cô và tên của một thí sinh. Cô bé - như thế - có thể đã tham gia vào một vụ việc có tính chất hình sự. Cô làm bài thi rất tốt, đạt trên 100 điểm TOEFL, và có tận hai tháng tiền thuê nhà. Cô từng cầm hơn một tờ chứng minh thư giả có dán ảnh của mình trong đời, và tự hào: cô đã cố thi vào sư phạm để được miễn học phí; nay lại tự kiếm được sinh hoạt phí đỡ đần cho cha mẹ ở quê.
Tôi đã gặp cô bé đó, thậm chí là gặp cả những người tổ chức các đường dây như thế - cũng lại vẫn chỉ là một vài trí thức trẻ, tuyệt đối tin tưởng rằng mình đang kiếm đồng tiền bằng sức lao động từ một thị trường tự nhiên tồn tại. Tôi không thấy cơ sở để tin rằng họ là “người xấu”.
Tôi cũng đã gặp những nhà quản lý nắm trong tay những “đặc quyền” ban ra các chứng chỉ. Họ thậm chí chẳng có một động tác tính toán giữa cái xấu và cái tốt khi bán những mảnh giấy - vì cho rằng đó là nhu cầu tất yếu của thị trường.
Nếu không phải những “người xấu”, thì nguyên nhân cốt lõi nào tạo nên cái thị trường hồn nhiên này?
Đó là sự vô nghĩa trong sự tồn tại của những chứng chỉ. Chúng trở thành hàng hóa, khi chỉ còn mang ý nghĩa của những chiếc chìa khóa để mở ra một cánh cửa. Đằng sau cánh cửa đó, chiếc chìa vô nghĩa, vì nó không đại diện cho tri thức, không đại diện cho kỹ năng của chủ sở hữu, không tạo ra giá trị.
Nếu như có cách kiểm soát, buộc một chứng chỉ phải phản ánh giá trị của người chủ, thì người ta sẽ chẳng nhọc công mua bán chúng làm gì. Thậm chí là chúng không thể tồn tại.
Nhưng chứng chỉ vẫn tồn tại vì nhiều lý do. Đầu tiên là việc chúng được sáng tác ra bởi các cơ quan chức năng. Đơn cử, chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư được cấp sau một bài thi sát hạch gồm... 25 câu hỏi về chuyên môn và pháp luật (25 câu, với cả những người đã học 5 năm đại học kiến trúc?). Hội Kiến trúc sư Việt Nam tuyên bố thẳng: “Cách tổ chức thi cử như thế này chỉ tạo ra các hiện tượng tiêu cực và không hề làm tốt hơn môi trường làm nghề”. Có không ít chứng chỉ hành nghề đã bị kêu ca “hành là chính” kiểu này trong những năm qua. Và vấn đề tiêu cực, tất nhiên cũng đã hơn một lần được đặt ra.
Một lý do khác là khi mà chứng chỉ hoàn toàn đóng vai trò hàng rào kỹ thuật cân đối cung-cầu. Tức là người ta không biết làm thế nào để cân đối việc tuyển dụng, tuyển sinh, bổ nhiệm nữa, đành trông vào các chứng chỉ. Có một lãnh đạo đã ước lượng rằng nền hành chính nước ta có đến 30% công chức "sáng cắp ô đi tối cắp về". Trong một môi trường công việc mà không ai cần chứng minh năng lực, thì sàng lọc, bổ nhiệm ra làm sao? Hãy trông vào chứng chỉ: đó là lúc cô bé sinh viên sư phạm xuất hiện. Cô sẽ lấy bằng tiếng Anh “xịn” giúp một vị nào đó phất lên trong sự nghiệp cắp ô. Một bạn sinh viên khác, sẽ nhận 100 nghìn đồng một buổi cho việc đi học thay lớp chuyên tu hoặc thạc sĩ.
Sự không thực chất trong hiệu quả công việc, hiệu quả đào tạo, đặc biệt là ở khu vực công, trở thành đất vàng cho hàng hóa mang tên chứng chỉ.
Tôi không có ý định phủ nhận sạch trơn “chứng chỉ”. Bằng lái xe, đơn cử, là rất quan trọng. Nhưng ngay cả với những chứng chỉ tốt, thì tâm lý không coi trọng thực chất, cũng tạo ra những người mua kẻ bán.
Và lý do cuối cùng, là sự bất lực trong việc đi tìm một thước đo con người nào khác ngoài cái hệ giá trị khoa cử vốn đã lỗi thời.
Có một lần, tôi ngồi trong giảng đường Đại học Kinh tế Quốc dân, nghe ông tổng giám đốc Samsung Việt Nam đến chia sẻ với các bạn sinh viên trường này. Ông gần như dội một gáo nước lạnh vào các bạn ngồi dưới, khi tuyên bố: “Kiến thức nền thì ai học cũng có được”. Tức là “bằng cấp không quan trọng”. Thế cái gì quan trọng? Ông nói, là “thái độ”.
Thái độ đo lường ra sao, tôi không biết. Có thể là Samsung, và nhiều thể chế kinh tế khác, đã tìm ra cách đo lường những giá trị như thế, để tìm ra được nhân tài. Chứ còn ở nước ta, “công đèn sách” vẫn là một thứ thiêng liêng. Trong nền kinh tế tri thức không đo nhau bằng chứng chỉ, thì quả không còn biết đo bằng gì. Ta thậm chí chưa từng nghĩ đến.
Và nếu mà có ngày nào đó thái độ trong công việc cũng đo được, thì tôi tin, người ta cũng sẽ cấp chứng chỉ cho thái độ luôn. Rồi sẽ có thị trường. Rồi sẽ có cả người đi thi thuê thái độ bằng chứng minh thư giả, hoặc là đường dây làm giả chứng chỉ thái độ, cam kết “phôi bằng xịn”.
Nếu Bill Gates sinh ra ở Việt Nam, có thể ông cũng có rất nhiều chứng chỉ.
Đức Hoàng