Sau này đi làm, tham dự những khóa đào tạo liên quan đến công việc, tôi vẫn phải dùng tài liệu photo. Lúc này, lý do không phải vì đắt hay rẻ mà vì giáo trình xuất bản từ lâu nhưng chưa được tái bản. Sách photo có rất nhiều hạn chế: chữ mờ, xộc xệch, đôi khi thiếu trang; nhưng vẫn được coi là "bảo bối" không thể thiếu trong mỗi kỳ thi.
Có rất nhiều lý do để đến bây giờ, sinh viên vẫn phải photo một cuốn giáo trình. Vậy nên, tôi không ngạc nhiên trước thông tin về một sinh viên mang theo sách photo. Điều khiến tôi ngạc nhiên là cách xử lý của Hội đồng kỷ luật Đại học Luật TP HCM khi phát hiện ra sự việc.
Ban đầu, Hội đồng đề nghị đình chỉ học tập một năm đối với sinh viên, do "tàng trữ và đưa vào trường trái phép tài liệu photo vi phạm bản quyền của trường". Trưởng phòng Công tác Chính trị sinh viên của trường cho biết thêm, “thủ phạm” bị phát hiện với hành vi vi phạm quá rõ: Mang tài liệu photo trái phép gồm tám cuốn giáo trình khác nhau vào trường.
Vấn đề không phải là chúng ta có nên thông cảm với em sinh viên hay không. Mà cơ bản là em ấy chưa được chứng minh là có tội. Hơn ai hết, các thành viên của trường luật hiểu rõ nguyên tắc suy đoán vô tội. Nhưng nhà trường không có động tác chứng minh em này làm sai luật. Họ thậm chí có quyền khám người sinh viên ngay từ đầu hay không, vẫn còn là một câu hỏi. Hành vi “mang tài liệu photo” của em này có phải là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hay không, cũng chưa hề được chứng minh.
Thế mà họ đề nghị đưa ra mức án phạt gây thiệt hại lớn: một năm đình chỉ học.
Luật Sở hữu Trí tuệ cho phép sao chép tài liệu nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy. Hành vi của sinh viên này có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hay không cần có kết luận từ phía cơ quan có đủ thẩm quyền. Nhà trường không thể bỏ qua mọi tranh biện, lý lẽ để áp dụng hình phạt theo kiểu "nội quy trường". Chỉ đến khi dư luận lên tiếng, mức phạt mới được giảm xuống thành kỷ luật cảnh cáo
Câu chuyện “tài liệu photo” này xuất hiện cùng thời điểm với nhiều “nghi án học đường” khác, khiến người ta phải xét lại quan niệm truyền thống về quan hệ thầy - trò.
Ở trường tiểu học Nam Trung Yên, một học sinh bị gãy chân. Em Kiên nói rằng mình bị ôtô chở bà hiệu trưởng đâm vào trong sân trường. Nhưng rất nhanh chóng, nhà trường phản ứng bằng cách... phát phiếu thăm dò tới toàn trường. Kết quả thu về là 100% ý kiến khẳng định rằng không có xe ôtô, taxi nào vào trường lúc em học sinh bị tai nạn. Những dòng “làm chứng” ngây ngô và nguệch ngoạc của các bạn học em Kiên - những học sinh tiểu học - trở thành bằng chứng ngoại phạm của bà hiệu trưởng.
Vụ việc chỉ sáng tỏ hơn đôi chút, khi báo chí vào cuộc, khi các cấp quản lý có ý kiến gay gắt. Bà hiệu trưởng “chợt nhớ ra” là mình có đi taxi vào trường. Tài xế taxi gây tai nạn cũng đã được tìm thấy.
Ở một câu chuyện khác, một vụ nổ hóa chất ở THPT Phan Đình Phùng rơi vào câm lặng. Một nữ sinh mất đi một phần tương lai khi bị bỏng, nhưng nhà trường không hề lên tiếng, và thậm chí có dấu hiệu “lờ” câu chuyện đi khá lâu. Lại một lần nữa, mọi chuyện chỉ được xem xét sòng phẳng khi dư luận biết và dậy sóng.
Quan hệ trong nhà trường, bỏ sang một bên những truyền thống “tôn sư trọng đạo” tốt đẹp, xét đến cùng vẫn là một mối quan hệ dân sự. Trong mối quan hệ dân sự ấy, thì phía học sinh, vì nhận thức non nớt, vì tính chất mối quan hệ (người chấm điểm và người nhận điểm), luôn là nhóm đối tượng yếu thế.
Sự yếu thế ấy được thể hiện trong những câu chuyện trên. Và sự yếu thế ấy, trong một số trường hợp, bị lấn lướt bởi những người có quyền hơn. Một cách vô cảm.
Cung cách ứng xử ấy với “trẻ con” mang một màu sắc phong kiến, khi mà những người giảng dạy được khoác một chiếc áo linh thiêng bất khả xâm phạm. Cung cách ứng xử ấy, sẽ tạo hình nhân cách cho những đứa trẻ.
“Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp, nhưng nó là một giá trị tinh thần. Ngoài khía cạnh tinh thần này, quan hệ thầy - trò cần được xử lý sòng phẳng như bất kỳ mối quan hệ dân sự nào khác, trên tinh thần thượng tôn pháp luật.
Trần Anh Tú