Nhưng liệu Bộ Giáo dục & Đào tạo có đủ khả năng chịu trách nhiệm về hiện thực này hay không?
Bạn bè tôi, những người tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội, khá long đong. Tất cả đã bước vào cổng trường đại học ở một giai đoạn bùng nổ của nền kinh tế nói chung và nền xây dựng nói riêng. Rồi khi họ ra trường, tất cả những thứ đó đã “đóng băng”.
Một vài người vào làm cho một tổng công ty xây dựng lớn, thuộc Bộ Xây dựng. Một trong số công trình mà công ty của các bạn xây, như mọi công trình khác giai đoạn ấy, là một đại dự án tham vọng. Nó nằm trên đường tôi đi làm mỗi ngày. Nhưng một hôm, tôi đi qua và phát hiện ra rằng cái máy xúc ở đấy không nhúc nhích nữa. Một tháng, hai tháng rồi một năm, cỏ bắt đầu mọc và bạn tôi không có lương. Họ đành bỏ việc. Sáu năm sau, bạn bè tôi cũng ổn định bằng nhiều cách xoay xở. Và sau rất nhiều nỗ lực “phá băng” ngành bất động sản của chính phủ, đến gần đây tôi mới thấy cái máy xúc ấy hoạt động trở lại.
Những bức tranh như thế rất tiêu biểu cho ngành xây dựng ở giai đoạn sau năm 2010. Đó tất nhiên không phải câu chuyện của Bộ giáo dục và Đào tạo. Bởi vì trường đại học của chúng tôi cũng trực thuộc Bộ Xây dựng. Đó là một quy trình kín, từ trường ra đến cái công trình. Hầu hết các trường đại học lớn khác và các lĩnh vực kinh tế khác cũng chịu sự quản lý theo ngành dọc. Và tôi tự hỏi Bộ trường Phùng Xuân Nhạ có thể làm gì với những bức tranh này?
Điểm đầu vào của chúng tôi không thấp, sinh viên Kiến trúc năng động và được khuyến khích tự học, tự đọc rất nhiều. Nhưng không ai dạy chúng tôi cách xin việc trong bối cảnh bong bóng bất động sản bị thổi lên rồi vỡ. Không ai dạy điều đó, nó nằm trong trách nhiệm quy hoạch vĩ mô của từng ngành.
Lãnh đạo một trong những doanh nghiệp lớn nhất nước đã chia sẻ sự bức xúc với việc quy trách nhiệm về nạn thất nghiệp cho Bộ Giáo dục & Đào tào. Anh chỉ ra rằng, tại các quốc gia phát triển, trách nhiệm “tạo việc làm” được quy định là của tất cả các bộ. Ví dụ, tại Mỹ, Ngân hàng Trung ương có ba trọng trách chính, thì đầu tiên là “tối đa hóa việc làm”, sau đó mới đến ổn định giá cả và thiết lập lãi suất phù hợp.
Ở Mỹ, tôi được giới thiệu mô hình bản đồ dự kiến về khối lượng việc làm của toàn bộ bang Florida, chi tiết đến từng hạt, cho từng ngành, cập nhật liên tục, để sinh viên có thể lên kế hoạch cho mình không chỉ về công việc, mà thậm chí là cả chỗ ở sau khi ra trường.
Một bản đồ như thế là điều đáng mơ ước. Nhưng làm sao người ta có thể tạo ra nó. Đó là sự tổng hợp dữ liệu lớn từ tất cả các cơ quan quản lý của mọi ngành, đòi hỏi một sự minh bạch đến tận cùng. Phải thế thì mới nhìn thấy được nơi nào có và sắp có việc làm.
Tổng công ty mà bạn bè tôi làm việc thua lỗ suốt từ năm 2011 đến giờ, vốn chủ sở hữu âm hàng nghìn tỷ đồng, rất nhiều nhân công thất nghiệp, mà giờ vẫn chưa thể quy được trách nhiệm cho ai.
Với những bài toán mà biến số không thể gọi tên như thế, thì một “bản đồ việc làm” kiểu Mỹ là điều không tưởng. Với những phương thức quy hoạch và vận hành kinh tế như thế, thì việc nhận trách nhiệm của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo rất đáng hoài nghi.
Việc quy trách nhiệm cho Bộ Giáo dục là lặp lại một tư duy rất sai lệch rằng bước vào trường đại học thì hiển nhiên sẽ có việc làm. Việc coi “quy tuyển sinh đại học” như nguyên nhân thất nghiệp tô đậm thêm định kiến học đại học là chìa khóa tối hậu để đảm bảo tương lai.
Nhiều nhân công của xơ sợi Đình Vũ, gang thép Thái Nguyên cũng đang thất nghiệp và đó không phải vấn đề của điểm đầu vào đại học. Bây giờ là lúc rất cần rõ ràng: ngành nào đang có nhiều nhân công thất nghiệp, do trình độ lao động, hay do quy hoạch ngành; chứ không phải chỉ đưa ra chung chung một con số tổng mà giải quyết được vấn đề.
Đôi khi, “nhận trách nhiệm” chưa hẳn là hành vi đáng khuyến khích. Một người nhận trách nhiệm, nhiều người tránh được trách nhiệm.
Đức Hoàng