Trước hết, tôi xin nói qua về hệ thống giáo dục tại Anh. Ở đây, trẻ bắt đầu vào tiểu học khoảng 5-7 tuổi (tuỳ từng bé), sau đó chuyển tiếp lên trung học ở tuổi 11-18. Từ 5 đến 14 tuổi, tất cả các em đều phải học môn lịch sử 2 giờ mỗi tuần.
Tuy nhiên, ở tuổi 14, khi bước vào chương trình GCSE (General Certificate of Secondary Education) - chương trình 2 năm cuối phổ thông thì các em sẽ học 8-9 môn học bao gồm cả bắt buộc lẫn tự chọn để dễ dàng tiếp tục ở các bậc học sau. Các môn bắt buộc gồm Toán, Tiếng Anh, Khoa học, Giáo dục tín ngưỡng (Religious Education) và Giáo dục thể chất. Như vậy, lịch sử là môn tự chọn.
Theo quan sát của tôi thì đa số học sinh phổ thông tại Anh chọn lịch sử và họ cần học 3 giờ mỗi tuần. Sau khi hoàn tất chương trình phổ thông, nếu em nào chọn học chương trình A-level (cho phép học sinh tích lũy kiến thức để vào các trường đại học) có môn lịch sử thì họ phải học môn này 5-6 giờ mỗi tuần.
Chương trình giảng dạy tại các trường học Anh rất linh hoạt. Việc học từ 14 đến 18 tuổi mới chú trọng đến các kỳ thi còn trước tuổi đó thì không. Mặc dù có chương trình khung quốc gia nhưng nó không chi tiết, cứng nhắc như nhiều nước khác.
Ví dụ, trong chương trình quốc gia nói rằng: "Trẻ nên được học về các sự kiện và con người nổi bật trong thế kỷ 20" thì cũng không quy định cụ thể là bao nhiêu người, bao nhiêu sự kiện cũng như tên người và tên sự kiện nào. Điều đó có nghĩa là nếu một giáo viên quan tâm đến nhân vật, sự kiện nào hoặc trường học đó ở địa phương có liên hệ gần gũi với nhân vật, sự kiện đó thì có thể đưa vào chương trình giảng dạy của mình. Chương trình quốc gia cũng không quy định về thời lượng, phương pháp cho từng chủ đề.
Chẳng hạn, khi tôi dạy cho học sinh 11, 12 tuổi, chúng tôi đã bỏ ra vài tuần chỉ để quan sát những người sống trong một lâu đài gần thị trấn của chúng tôi, phân tích và thấu hiểu cuộc sống của họ. Ở một lớp khác, các em được học về những người lính trong thế chiến thứ nhất. Có nhiều buổi học, chúng tôi dành thời gian để phân tích nhật ký, bài thơ, các bức thư tình của họ.
Điều đặc biệt là chương trình môn lịch sử không quá nhiều nội dung vì tôi muốn phát triển kỹ năng đa đạng cho các 'sử gia trẻ tuổi' của mình. Để phân tích một nguồn thông tin như một bức thư phải mất rất nhiều thời gian nếu muốn thảo luận về nó, hiểu và liên kết nó với hoàn cảnh lịch sử bức thư ra đời, vì thế có khi phải mất cả buổi học. Chúng tôi chú trọng việc khuyến khích thảo luận mang tính phân tích mức độ cao cho học sinh.
Làm việc nhóm là một cách tốt để kích thích tư duy cho các em. Tôi thường dùng phương pháp 'xếp kim cương' để xây dựng các cuộc tranh luận, phân tích các sự kiện lịch sử và cách thức này rất hữu dụng.
Ví dụ, khi thảo luận xem xét nguyên nhân nội chiến ở Anh hay Mỹ, các em có thể liệt kê 20 hay 30 ý, trong đó có thể là nguyên nhân dài hạn, hay ngắn hạn nhưng điển hình. Với những ý tưởng đơn giản ban đầu, sau khi thảo luận cùng bạn trong nhóm để tư duy, phân tích và sắp xếp các suy nghĩ của mình đã giúp các em tìm ra những lập luận phức tạp và đặc sắc hơn. Hoạt động này giống như hình ảnh hóa suy nghĩ cho học sinh bằng cách đặt suy nghĩ trừu tượng bên trong của các em vào một tiến trình phân tích để rồi từ đó từng bước trở nên rõ ràng, cụ thể hơn.
Một số hoạt động khác khi dạy tôi dựa vào mô hình tranh luận bài bản được sử dụng gần 200 năm nay ở 'Hội đồng sinh viên đại học Cambridge' để tạo điều kiện cho học sinh tự tin phát biểu. Tôi dùng mô hình này để chứng tỏ rằng những cách thức cũ vẫn có thể dùng trong dạy học hiện đại.
Để chuẩn bị cho tranh luận, chúng tôi trải qua nhiều hoạt động để tìm hiểu vấn đề, xây dựng các quan điểm, đưa ra các lập luận. Điều thú vị là trước khi bắt đầu 15 phút, học sinh mới được chỉ định ai sẽ thuộc về 'phe' nào. Một học sinh có thể phải biện luận cho một ý kiến trái với ý kiến thực sự của họ. Khi tranh luận với những người khác, các em vừa hiểu về quan điểm đó vừa khám phá nhiều hơn về chính bản thân họ. Cách thức này cũng bồi dưỡng các kỹ năng xã hội quan trọng để học sinh biết cách tranh luận quả quyết, có căn cứ nhưng sau đó vẫn là bạn bè thân thiện.
Mới đây, trên một tờ báo Anh đưa tin, hai chính trị gia người Anh Ed Ball và George từ hai Đảng đối lập là Lao động và Bảo thủ đã trông con cho nhau khi một trong hai bận phỏng vấn. Như vậy, dù quan điểm chính trị có khác nhau, trong các kỳ họp, bên ngoài họ vẫn có thể giúp đỡ, cư xử ôn hoà với nhau. Chúng tôi muốn rèn cho học sinh những kỹ năng và thái độ sống cho tương lai, trong đời sống thực như các vị chính trị gia mà không chỉ là trường học.
Một điều quan trọng khác khi dạy lịch sử là cho phép học sinh được suy nghĩ và thực hiện các nghiên cứu bài bản. Dù các kỳ thi bắt buộc ở tuổi 16 và 18 cho môn lịch sử thì mục tiêu nghiên cứu và sáng tạo vẫn được đề cao. Vì thế, giáo viên phải xem mình là người hỗ trợ học tập cho học sinh. Một số bài học nên để các em tự dùng máy tính, sách để tra cứu thông tin. Giáo viên vẫn có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn cách tra cứu và hỗ trợ từng cá nhân nhưng không mất thời gian công sức để trình bày toàn bài học đó. Yêu cầu học sinh tự nghiên cứu đặc biệt hữu ích khi học về lịch sử địa phương.
Tôi thấy rằng sau các thảo luận, nghiên cứu, phân tích thì một bài luận là cần thiết. Tôi thường không yêu cầu viết nhiều, chỉ một bài dài khoảng 1.500 từ trong một tháng. Số lượng không quan trọng bằng chất lượng. Quá trình viết một bài luận sắc sảo, thông minh là một thử thách thú vị cho học sinh. Tôi cho rằng với sự hướng dẫn cẩn thận của giáo viên, hầu hết các em đều có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này và đánh giá được các ý kiến, hiểu biết của họ.
Theo tôi, lịch sử là môn học quan trọng để dạy kỹ năng tư duy và viết lách cho học sinh.
James Underwood