Người gửi: Nguyễn Văn Cương
Gửi tới: Ban Biên tập
Tiêu đề: Trao đổi với bạn Hiền Quân về chính sách pháp luật nào để xử lý Vụ Công ty Đông Nam
Đọc bài viết của bạn Hiền Quân đăng trên diễn đàn Bạn đọc viết, tôi thực sự rất ấn tượng với các nhìn và tư duy rất độc đáo của bạn. Tuy nhiên, để dư luận có cách nhìn đa chiều hơn về vấn đề bạn nêu, tôi thấy cần phải trao đổi thêm về chủ đề này.
Quả thực thời gian qua, doanh nghiệp trong nền kinh tế, nhất là nhiều doanh nghiệp chỉ thời gian ngắn trước đây được coi là thành công thì chẳng bao lâu bị phát hiện có những hành vi như lừa đảo, buôn lậu, trốn thuế, bị phát hiện và xử lý. Sau đó hầu hết các vụ việc nghiêm trọng đều bị xử lý bằng biện pháp hình sự dẫn đến chủ doanh nghiệp thì đi tù, thậm chí bị tử hình, doanh nghiệp thì chấm dứt hoạt động và một đống nợ cho xã hội không có khả năng hoàn trả. Có phải chúng ta đã lạm dụng biện pháp hình sự trong các vụ việc ấy không? Và từ góc độ chính sách quản lý xã hội, bạn Hiền Quân nêu ra hai vấn đề mà bạn cho là "còn rất mới" và "chưa có lời giải thỏa đáng" đó là:
- (Việc dùng) các biện pháp hình sự để xử lý các sai phạm về quản lý kinh tế có ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội như thế nào?
- (Liệu dùng chính sách hình sự) có giúp nâng hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp hay không?
Chắc chắn, khi nào còn Nhà nước thực hiện việc quản lý và duy trì trật tự xã hội trong nền kinh tế thị trường, hai vấn đề trên luôn là vấn đề mới mà các nhà lập pháp, chuyên gia pháp luật hình sự còn phải trăn trở.
Để trả lời những câu hỏi trên, bạn Quân có một số kết luận sau: “Thực tiễn trong thời gian chỉ ra rằng các biện pháp hình sự thất bại trong việc tạo ra cơ chế bù đắp các thiệt hại xã hội”… "Chính sách hình sự không mang lại hiệu quả nào trong việc điều chỉnh các hành vi buôn lậu, trốn thuế". Hay nói cách khác pháp luật hình sự không có chỗ đứng nào trong việc xử lý các vụ việc kiểu vụ Công ty Đông Nam. Bạn Quân kết luận "Chỉ có cơ chế dân sự là biện pháp vừa có lợi cho xã hội vừa giúp nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế".
Ở đây, tôi không đồng ý với bạn Quân bởi một lẽ, không chỉ biện pháp hình sự không phải được thiết kế để “bù đắp thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp luật gây ra” mà bản thân biện pháp dân sự (hay chế tài dân sự, kể cả biện pháp bồi thường của pháp luật dân sự) cũng không được thiết kế để “bù đắp thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp luật gây ra”. Ngay cả bản thân các chế tài dân sự cũng chỉ để phân bổ lại thiệt hại trong xã hội và trả lời câu hỏi ai nên gánh chịu thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra (kẻ gây thiệt hại cho xã hội hay người đã bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra). Còn cứ khi nào đã có hành vi vi phạm pháp luật thì nói chung đã có thiệt hại cho xã hội (hoặc chí ít cũng có nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội) chứ không phải chờ đến khi vụ việc bị phát hiện và xử lý về mặt dân sự hoặc hình sự thì thiệt hại cho xã hội mới xảy ra. Thực tế, các hành vi lừa đảo, buôn lậu, trốn thuế hoặc các vi phạm khác trong kinh doanh luôn là hành vi gây thiệt hại cho xã hội mặc dù thiệt hại đó do các thành viên cụ thể trong xã hội hay nhóm cộng đồng hay Nhà nước phải gánh chịu.
Khi thực hiện hành vi trốn thuế, lừa đảo, buôn lậu tức là người thực hiện hành vi này đã chà đạp lên lợi ích của xã hội và đã gây thiệt hại cho xã hội. Như vậy, không có cơ chế pháp luật nào có thể “bù đắp thiệt hại cho xã hội” hết, dù đó là cơ chế pháp luật dân sự hay hình sự. Các cơ chế pháp luật được xây dựng là nhằm trả lời cho câu hỏi “khi đã có thiệt hại đó xảy ra thì ai nên là người phải gánh chịu?” và câu hỏi “làm thế nào để trong tương lai những hành vi gây thiệt hại cho xã hội như thế không xảy ra nữa?” (tác dụng răn đe, phòng ngừa).
Để đảm bảo tính phòng ngừa này, thực tế, cả chế tài dân sự và chế tài hình sự đều có tác dụng. Tuy nhiên, mức độ, tác dụng phòng ngừa của hai loại chế tài này là rất khác nhau. Mỗi loại chế tài có mặt mạnh và mặt yếu khác nhau. Chế tài dân sự do chỉ chú trọng vào việc yêu cầu bồi thường, khôi phục thiệt hại mà cá nhân, tổ chức nào đó đã phải gánh chịu (mà bản chất chỉ là phân bổ lại thiệt hại đã xảy ra giữa kẻ gây thiệt hại và người đã gánh chịu thiệt hại chứ còn xét về tổng thể xã hội, hoàn toàn không có cái gọi là “khôi phục thiệt hại cho xã hội” bởi khi đã có hành vi gây thiệt hại cho xã hội thì thiệt hại cho xã hội đã xảy ra rồi làm sao có thể khôi phục lại được).
Chế tài dân sự không bao giờ dẫn tới các biện pháp có tính chất trừng phạt về mặt nhân thân của kẻ có hành vi vi phạm. Khi xã hội càng trở nên giàu có, biện pháp trừng phạt về mặt nhân thân đối với kẻ có hành vi vi phạm (tức là bỏ tù, tước quyền công dân hoặc các biện pháp khác) mới là biện pháp có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa mạnh mẽ nhất. Ai nghiên cứu pháp luật cũng phải nhớ tới câu chuyện từ thời cổ La Mã rằng trong luật dân sự thời cổ La Mã có quy định rằng người nào tát người khác thì bị buộc bồi thường một đồng tiền vàng cho người bị tát. Có kẻ nhà giàu, chơi ngông đã đi dọc phố tát cho mỗi người một cái và cứ sau một cái tát anh ta trả người bị tát một đồng tiền vàng. Qua đó cho thấy rằng, khi không có các biện pháp trừng phạt về mặt nhân thân, khó có thể có điều kiện đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao và đặc biệt, nếu dùng chế tài dân sự (tức là dùng tiền) thay thế cho chế tài có tính nhân thân trong luật hình sự thì pháp luật sẽ là pháp luật ủng hộ hành vi vi phạm của những kẻ giàu chứ không phải là chỗ dựa của toàn dân.
Tôi cũng đồng ý với bạn Quân khi nói: "Bản thân việc vận hành bộ máy nhà nước để áp dụng các biện pháp hình sự cũng tạo thêm chi phí cho xã hội. Lực lượng công an, thuế vụ, hay nhà tù đều vận hành bằng vốn ngân sách”. Tuy nhiên điều đó chỉ có thể làm căn cứ để Nhà nước cân nhắc và so sánh giữa lợi ích mà sự tồn tại của các cơ quan này mang lại và những chi phí phải bỏ ra để duy trì quyết định có duy trì hay không? Và khi duy trì thì nên duy trì những bộ phận nào, số lượng bao nhiêu là phù hợp trong các cơ quan này? Chứ bản thân điều đó không đủ để phủ nhận sự tồn tại của các cơ quan này.
Ngoài ra bạn Quân còn cho rằng: "Nếu chúng ta thừa nhận bản chất của doanh nghiệp là theo đuổi lợi nhuận, thì chúng ta sẽ phải nhìn lại việc áp dụng chính sách hình sự đối với quản lý kinh tế, bởi biện pháp răn đe sẽ không thể làm thay đổi bản chất doanh nghiệp" và "răn đe sẽ không đạt được kết quả nâng hiệu quả quản lý kinh tế của doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp sẽ luôn khai thác mọi khả năng sẵn có trong xã hội để được tối đa lợi nhuận”. Tôi cũng không đồng ý với lập luận này của bạn Quân bởi lẽ pháp luật dân sự, pháp luật hình sự được sinh ra không bao giờ nhằm làm thay đổi bản chất “tìm kiếm và tối đa hoá lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh”. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhầm lẫn giữa động lực (hay động cơ của hành vi) với biểu hiện của hành vi. Cùng một động cơ là tối đa hoá lợi nhuận, có nhiều hành vi thực hiện khác nhau. Cũng giống như một bài toán, để đi đến kết quả, có thể có nhiều con đường khác nhau. Để tối đa hoá lợi nhuận, xã hội, pháp luật rất khuyến khích các hành vi của doanh nghiệp không trái pháp luật (doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm để tối đa hoá lợi nhuận), nhưng không bao giờ khuyến khích việc doanh nghiệp chọn lựa các hành vi trái pháp luật như buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo…
Rất tiếc, bạn Quân khi quá thiên về ủng hộ phương án xử lý vụ việc bằng giải pháp "dân sự" lại không thấy được những hạn chế mà giải pháp dân sự phủ nhận tác dụng răn đe, phòng ngừa của biện pháp hình sự. Ẩn đằng sau cách lập luận của bạn Quân chính là quan niệm bản chất của con người chỉ là con người kinh tế tức là mọi hành vi đều được thúc đẩy bởi các lợi ích kinh tế, do đó pháp luật chỉ cần dùng biện pháp kinh tế cũng đủ để điều chỉnh hành vi của con người. Tuy nhiên, thực tế, con người không thuần tuý chỉ là con người kinh tế, con người còn có nhân cách, danh dự, các quyền tự do và bao giá trị nhân thân khác mà khó có thể thuần túy dùng tiền hay tài sản để đo lường. Đây là những giá trị không thể không tính tới khi điều chỉnh pháp luật. Tôi xin mượn cách nói hình ảnh của Giáo sư kinh tế học Paul A. Samuelson (tôi tin là bạn Quân cũng biết) rằng để điều chỉnh xã hội bằng pháp luật, chúng ta phải biết vỗ tay bằng cả hai bàn tay, bàn tay của luật tư (trong đó luật dân sự là bộ phận quan trọng hàng đầu) và bàn tay của luật công (trong đó luật hình sự là bộ phận quan trọng hàng đầu).
Tôi rất mong bạn Quân và các bạn quan tâm tới vấn đề này tiếp tục tranh luận. Trên những lập luận kể trên, tôi rất tán đồng với các bạn đã nêu trong diễn đàn này rằng, phải xử lý thật nghiêm minh các doanh nghiệp có hành vi buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, bất kể doanh nghiệp đó đã thành công trong quá khứ. Một xã hội phát triển bền vững không bao giờ chấp nhận các hành vi buôn lậu, trốn thuế và lừa đảo. Tôi cũng đồng ý với ý kiến của các bạn khi cho rằng hệ thống pháp luật không minh bạch, bộ máy thực thi pháp luật không nghiêm và thiếu hiệu quả cũng là điều kiện quan trọng để nảy sinh các hành vi vi phạm pháp luật. Từ đó, tư duy quản lý kinh tế của Nhà nước ta cần liên tục được xem xét để điều chỉnh cho kịp với những đòi hỏi ngày càng mới của nền kinh tế, xã hội nước ta. Tuy nhiên, tư duy quản lý kinh tế cần thay đổi nhưng thay đổi là để chính sách, pháp luật ngày một minh bạch hơn, dân chủ, là chỗ dựa để người dân lương thiện xây dựng cuộc sống, là cơ sở để khuyến khích các doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận bằng các hành vi không trái pháp luật chứ không bao giờ để biện hộ cho các hành vi trái pháp luật kiểu buôn lậu, trốn thuế và lừa đảo.
Tôi rất cám ơn Toà soạn đã cho đăng bài ý kiến này, và rất mong các bạn cùng quan tâm tham gia trao đổi.
Nguyễn Văn Cương
Viện NCKH Pháp lý
Bộ Tư pháp