“Nước mắt mẹ không còn, để khóc những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi...
Thời gian trôi qua, vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng
Nhưng vết thương lòng mẹ vẫn còn nặng mang”…
Mỗi lần nghe những câu hát đó, tôi lại nhớ bà nội da diết. Hơn 40 năm kể từ ngày chú út tôi hy sinh, chưa một ngày bà từ bỏ hy vọng tìm chú. Bà bảo, bà sẽ đưa được chú về bên ông nội, về bên những người thân, rồi bà mới yên lòng nhắm mắt…
Tôi sinh ra khi đất nước đã không còn tiếng súng, với tôi, chiến tranh đó là một cái gì đó thật xa vời, như những bài giảng mà cô giáo tôi vẫn dạy khi tôi còn cắp sách, như những đoạn phim mà tôi vẫn được xem trên tivi. Còn với bà, nỗi đau chiến tranh vẫn hàng ngày hàng giờ hiện diện trong cuộc sống, nỗi khắc khoải suốt mấy chục năm bà chưa tìm lại được con trai thân yêu…
Chú tôi hy sinh ở Quảng Trị đúng mùa hè đỏ lửa năm 1972 ấy, một mùa hè khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc. Khi đó chú mới chỉ 18 tuổi. Bà bảo chú học giỏi, thông minh lắm, chú vừa đỗ vào trường xây dựng thì hưởng ứng lời kêu gọi: “Xếp bút nghiên lên đường”, hàng nghìn sinh viên Hà Nội đã lên đường nhập ngũ, trong đó có chú út của tôi. Chú sợ bà lo lắng nên đã trốn đi tuyển quân, đến khi giấy báo nhập ngũ gửi về nhà, bà nội tôi mới biết…
Chú tôi không những học giỏi mà còn rất đẹp trai và lãng mạn. Bà đưa cho tôi xem bức hình chú chụp trước ngày lên đường, về những lá thư chú gửi về, lúc nào cũng kèm những bài thơ chú viết. Mấy chục năm bà vẫn giữ, giấy đã nhòe, có lá thư không còn nhìn rõ chữ. Thế mà bà vẫn nâng niu chúng, như một báu vật…
Mỗi lần tôi về quê, bà lại kéo tôi ra ngồi kể chuyện, những câu chuyện không bao giờ kết thúc về chú út. Tôi lặng lẽ ngồi cạnh bà, chăm chú nghe bà kể, bởi tôi biết rằng, đối với một người mẹ thì cho dù là bao nhiêu lâu đi nữa, ký ức về những đứa con chẳng bao giờ có thể quên được… Bà kể đường hành quân vất vả như thế, nhưng những lá thư chú viết không bao giờ chú kể về hy sinh gian khổ, chỉ là vẫn cái giọng bông đùa, tếu táo, chú kể về đường ra trận như một chuyến phiêu lưu khám phá đầy lý thú để bà yên lòng…
Ba tôi đã đi rất nhiều nơi để tìm chú, nhưng ở đâu cũng chỉ nhận được cái lắc đầu. Chiến trường Quảng Trị khốc liệt quá, mấy nghìn chiến sĩ vào trận địa mà chỉ có vài trăm người tìm thấy xác, còn lại tất cả đã hóa vào màu xanh của những thảm cỏ, hóa vào từng tấc đất Thành Cổ mất rồi, và biết đâu đó lại có cả một phần máu thịt của chú tôi trong đó… Ba tôi tự động viên mình: “Ừ thôi chú có nằm đâu thì cũng đều là quê hương mình cả, đều có đồng đội bên cạnh”…
Chỉ có bà nội tôi là chưa bao giờ bỏ cuộc, bà bảo bà tin vào linh cảm của mình là chú đang nằm ở đâu đó đợi bà đưa về… Thật may mắn, trong một lần quy tập mộ liệt sĩ chưa biết tên, người ta đã tìm thấy chiếc nhẫn khắc tên chú… Đó là dấu hiệu không thể nhầm lẫn để bà nội tôi tìm ra con…
Ngày đưa chú về, mưa tầm tã… bà lặng lẽ mang những kỷ vật của chú ra. Đó là chiếc áo ngày đi học chú vẫn mặc, đây là đôi dép cao su bà mua cho chú ngày chú vào đại học, cả những lá thư nhuốm màu thời gian bà nâng niu bấy lâu nữa… Bà châm lửa đốt nói gửi xuống cho chú, bà chỉ giữ hộ chú thôi…
Tìm được chú, đưa chú về với quê hương, bà nội tôi đã hoàn thành tâm nguyện cuối cùng trước khi xuôi tay nhắm mắt… Hàng ngày, bà lại quanh quẩn nghĩa trang, lúc thì cắt đám cỏ, lúc thì lau dọn bia mộ cho các liệt sĩ. Có ai hỏi bà đều bảo bà muốn tự tay chăm sóc cho chú và đồng đội, để bù lại hơn 40 năm không được gần bên con. Có người không biết lại tưởng bà lẩn thẩn, nhưng tôi hiểu bà hơn ai hết. Bà thật sự làm tôi khâm phục bởi tấm lòng của một người mẹ yêu con đến kiệt cùng những gì mình có…
Sáng nay tôi vừa nói với học trò về trận chiến Thành Cổ, đọc cho chúng nghe những câu thơ thật xúc động của nhà thơ Lê Bá Dương:
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”
Tự nhiên khóe mắt tôi cay cay khi nghĩ đến chú út, nghĩ đến bà nội, nghĩ đến bao thế hệ thanh niên Việt Nam đã ngã xuống, máu nhuộm đỏ từng tấc đất. Biết bao người mẹ đã hiến dâng những đứa con thân yêu nhất cho Tổ quốc, để hôm nay, từng đàn chim câu trắng tung bay trên nền trời xanh thẳm. Tôi tự hào về bà - người mẹ Việt Nam anh hùng.
Nguyễn Mạnh Hùng